Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 24/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TP – TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 24/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 08 tháng 7 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện TP, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 112/2022/TLST-HNGĐ, ngày 04 tháng 3 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2022/QĐXX-HNGĐ, ngày 06 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 28/2022/QĐ-HPT, ngày 21 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Phạm Thị Ngọc L, sinh năm 1993 Địa chỉ: Khu phố 12, thị trấn LH, huyện TP, tỉnh Bình Thuận; có mặt

Bị đơn: Ông Lường Viết T, sinh năm 1991 Địa chỉ: Khu phố 12, thị trấn LH, huyện TP, tỉnh Bình Thuận; vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện gởi đến Tòa án ngày 03 tháng 02 năm 2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Phạm Thị Ngọc L (gọi tắt là bà L) trình bày: Bà và ông Lường Viết T (gọi tắt là ông T) xác lập quan hệ vợ chồng năm 2011 trên cơ sở tự nguyện, tìm hiểu yêu thương nhau và có đăng ký kết hôn lại tại Ủy ban nhân dân thị trấn LH, huyện TP, tỉnh Bình Thuận.

Cuộc sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ năm 2013, nguyên nhân từ việc bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi vã; bà bỏ vào Thành phố Hồ Chí Minh làm ăn vài tháng, khi về lại thì ông T đã bỏ đi, thỉnh thoảng ông T có về thăm con nhưng ông bà không quan tâm gì đến nhau nữa.

Nay bà xác định mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu được ly hôn ông T.

Về con chung: Bà và ông T có 01 con chung là Lường Viết T1, sinh ngày 23 tháng 5 năm 2012, hiện đang ở với bà; Bà yêu cầu được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu T1 cho đến khi đủ 18 tuổi; Bà không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Không có.

Bị đơn ông T không có mặt ở địa phương và không rõ thời điểm trở về nên vụ án không tiến hành hòa giải được.

Tại tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TP phát biểu ý kiến về việc kiểm sát tuân theo pháp luật: các bước của quá trình chuẩn bị xét xử, việc thu thập chứng cứ và trình tự thủ tục tại phiên tòa của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng là đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; đề nghị chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về hôn nhân, bà L được ly hôn ông T; về con chung: giao cháu T1 cho bà L trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi; bà L không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con; về tài sản và nghĩa vụ chung: không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Tòa án nhận định:

1. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Bà L yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn ông T; giao 01 người con chung giữa bà với ông T là cháu Lường Viết T1 cho bà trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi, bà không ai yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Đây là vụ kiện “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Ông T đang cư trú tại huyện TP nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện TP theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

2. Về thủ tục tố tụng: Do ông T không có mặt ở địa phương và không rõ thời điểm trở về nên Tòa án tiến hành lập biên bản và niêm yết các văn bản tố tụng đúng theo quy định tại Điều 177, Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự và xét xử vắng mặt ông T theo quy định của điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

3. Về pháp luật được áp dụng để giải quyết: Bà L và ông T xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở tình yêu tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại giấy chứng nhận kết hôn số 230 ngày 28 tháng 9 năm 2011 tại Ủy ban nhân dân thị trấn LH nên là hôn nhân hợp pháp. Vì vậy, căn cứ vào Luật Hôn nhân và Gia đình để giải quyết.

4. Về yêu cầu khởi kiện của bà L: Bà L yêu cầu ly hôn ông T với lý do cuộc sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ năm 2013, nguyên nhân từ việc bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi vã; bà bỏ vào Thành phố Hồ Chí Minh làm ăn vài tháng, khi về lại thì ông T đã bỏ đi, thỉnh thoảng có về thăm con nhưng ông bà không quan tâm gì đến nhau nữa, lời trình bày của bà L phù hợp với nội dung Tòa án xác minh tại khu phố nơi ông bà sinh sống, điều đó thể hiện ông bà đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên có cơ sở chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà L đối với ông T Về con chung: Bà L và ông T có 01 con chung là Lường Viết T1, sinh ngày 23 tháng 5 năm 2012, hiện đang ở với bà L. Bà L yêu cầu được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lường Viết T1 cho đến khi đủ 18 tuổi là phù hợp với tình hình thực tế của cháu T1 nên chấp nhận; bà L không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

Về tài sản và nghĩa vụ chung: không có nên không xem xét.

5. Về án phí: Bà L phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, bà L đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí nên không hoàn lại cho bà tiền tạm ứng án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 146; khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con của bà Phạm Thị Ngọc L đối với ông Lường Viết T; Bà Phạm Thị Ngọc L được ly hôn ông Lường Viết T; Giấy chứng nhận kết hôn số 230 ngày 28 tháng 9 năm 2011 của Ủy ban nhân dân thị trấn LH, không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Về con chung: Bà Phạm Thị Ngọc L và ông Lường Viết T có 01 con chung là Lường Viết T1, sinh ngày 23 tháng 5 năm 2012, hiện đang ở với bà Phạm Thị Ngọc L.

Giao cho bà Phạm Thị Ngọc L tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lường Viết T1 cho đến khi đủ 18 tuổi. Bà Phạm Thị Ngọc L không yêu cầu ông Lường Viết T cấp dưỡng nuôi con.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi do các bên tự thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung sau khi ly hôn mà không ai cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng nuôi con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trường hợp có yêu cầu của cha mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định pháp luật tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Không có Về án phí: Bà Phạm Thị Ngọc L phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, bà Phạm Thị Ngọc L đã tạm nộp 300.000 đồng tại biên lai thu số 0003333, ngày 04 tháng 3 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện TP nên không hoàn lại cho bà Phạm Thị Ngọc L số tiền này Nguyên đơn bà Phạm Thị Ngọc L có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể ngày tuyên án. Bị đơn ông Lường Viết T vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 24/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:24/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phong - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về