Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 201/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 201/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 275/2022/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2022 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 200/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 183/2022/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Thế M; Nơi cư trú: Thôn 1, xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt.

- Bị đơn: Chị Phạm Thị V; Nơi cư trú: Thôn B, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện, tại Bản tự khai, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa, nguyên đơn là anh Nguyễn Thế M trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Phạm Thị V chung sống với nhau như vợ chồng trên cơ sở hai bên tự nguyện từ năm 2015, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 06 tháng 02 năm 2017. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống cùng gia đình anh ở Thôn 1, xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến khoảng năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, nên thường xuyên xảy ra va chạm cãi vã, xúc phạm nhau. Mâu thuẫn đã được gia đình hai bên nội, ngoại hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn căng thẳng, nên từ năm 2018 đến nay chị V đã về cư trú cùng mẹ đẻ chị V ở thôn B, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng, cũng từ đó anh và chị V sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Phạm Thị V.

Về con chung: Anh và chị Phạm Thị V có một con chung là Nguyễn Thế T1, sinh ngày 08 tháng 11 năm 2015. Từ khi chị V bỏ đi đến nay, con chung do chị V nuôi dưỡng. Anh đề nghị Tòa án giao con chung cho chị V nuôi dưỡng, anh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị V 3.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn chị Phạm Thị V: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị V để chị Vân đến Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên giải quyết việc anh Nguyễn Thế M xin ly hôn nhưng chị V đều vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn đã không đến Tòa án ghi bản tự khai; không đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo giấy triệu tập, thông báo của Tòa án; vắng mặt tại phiên tòa không có lý do đã vi phạm các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 Bộ luật Dân sự; các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016, đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, anh Nguyễn Thế M được ly hôn chị Phạm Thị V. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thế T1, sinh ngày 08 tháng 11 năm 2015 cho chị V nuôi dưỡng. Anh M có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị V 3.000.000 đồng/tháng; không giải quyết về tài sản chung. Anh M phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con để sung quỹ Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Anh Nguyễn Thế M có đơn khởi kiện xin ly hôn với chị Phạm Thị V. Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1, Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị Phạm Thị V hiện đang cư trú tại thôn B, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng.

[2] Về việc vắng mặt đương sự: Bị đơn chị Phạm Thị V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên tiến hành xét xử vắng mặt chị Phạm Thị V.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Thế M và chị Phạm Thị V kết hôn trên cơ sở tự nguyện và được Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện T, thành phố Hải Phòng cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 06 tháng 02 năm 2017, nên theo quy định tại Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình, đây là hôn nhân hợp pháp.

[4] Tuy chị Phạm Thị V không đến Tòa án, nên không có quan điểm của chị V về việc anh Nguyễn Thế M xin ly hôn, nhưng căn cứ lời khai của nguyên đơn, căn cứ các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và các chứng cứ do Tòa án thu thập có đủ cơ sở xác định: Quá trình chung sống, anh Nguyễn Thế M và chị Phạm Thị V đã phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm nên thường xuyên xảy ra cãi vã, xúc phạm nhau. Xét quan hệ hôn nhân của anh Nguyễn Thế M và chị Phạm Thị V là không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận đề nghị xin được ly hôn của anh Nguyễn Thế M đối với chị Phạm Thị V.

[5] Về con chung: Anh Nguyễn Thế M và chị Phạm Thị V có một con chung là Nguyễn Thế T1, sinh ngày 08 tháng 11 năm 2015. Anh M đề nghị Tòa án giao con chung cho chị V nuôi dưỡng, chị V không có quan điểm về con chung. Xét thấy, hiện tại anh M và chị V đều là lao động tự do, nên khả năng và điều kiện nuôi dưỡng con chung của anh M và chị V như nhau. Từ khi chị V về cư trú cùng mẹ đẻ chị V, con chung vẫn do chị V nuôi dưỡng. Để đảm bảo sự ổn định cần giao cho chị V tiếp tục nuôi dưỡng con chung là hợp lý, bảo đảm quyền lợi cho con chung.

[6] Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị Phạm Thị V không có quan điểm về việc cấp dưỡng nuôi con. Anh Nguyễn Thế M có quan điểm, anh có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị V 3.000.000 đồng/tháng. Xét thấy, quan điểm của anh M về việc cấp dưỡng nuôi con là tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho con chung, nên chấp nhận.

[7] Về tài sản chung: Anh Nguyễn Thế M không yêu cầu Tòa án giải quyết, chị Phạm Thị V không có quan điểm về vấn đề tài sản. Nên Tòa án không xem xét, giải quyết về vấn đề tài sản, khi nào các đương sự có yêu cầu Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ việc dân sự khác.

[8] Về án phí sơ thẩm: Anh Nguyễn Thế M là nguyên đơn và có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, nên anh M phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Thế M và chị Phạm Thị V được quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự;

- Căn cứ các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Điều 6; điểm a khoản 5 và điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Thế M được ly hôn chị Phạm Thị V.

2. Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thế T1, sinh ngày 08 tháng 11 năm 2015 cho chị Phạm Thị V tiếp tục nuôi dưỡng đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về việc cấp dưỡng nuôi con: Anh Nguyễn Thế M có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Phạm Thị V 3.000.000 (Ba triệu) đồng/01 tháng. Thời hạn cấp dưỡng nuôi con tính từ ngày 14 tháng 9 năm 2022 đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Đối với khoản tiền cấp dưỡng nuôi con nêu trên, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong khoản tiền cấp dưỡng, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Về tài sản chung: Anh Nguyễn Thế M không yêu cầu Tòa án giải quyết, chị Phạm Thị V không có quan điểm về vấn đề tài sản. Nên Tòa án không xem xét, giải quyết về vấn đề tài sản, khi nào các đương sự có yêu cầu Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ việc dân sự khác.

5. Về án phí: Anh Nguyễn Thế M phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con để sung công quỹ Nhà nước. Anh Nguyễn Thế M đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí ly hôn theo Biên lai thu tiền số 8093 ngày 26 tháng 7 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên. Anh Nguyễn Thế M phải nộp tiếp số tiền còn lại là 300.000 đồng.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

63
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 201/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:201/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về