Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 100/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 100/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện An Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 97/2022/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2022 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 56/2022/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị L; nơi cư trú: Thôn 4, xã B, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Lê Thiếu V; ĐKTT: Thôn 4, xã B, huyện A, thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Tổ 7, thị trấn A, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện, tại Bản tự khai, nguyên đơn chị Lê Thị L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Lê Thiếu V trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân thị trấn An Dương, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng vào ngày 01 tháng 3 năm 2013. Sau khi kết hôn, vợ chồng về sống cùng gia đình anh V tại tổ 7, thị trấn An Dương, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng đến năm 2020 thì chuyển về sống ở thôn 4, xã Bắc Sơn, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Trong thời gian vợ chồng chung sống cùng nhau phát sinh nhiều mâu thuẫn do vợ chồng tính cách không hòa hợp, anh V hay đàn đúm bạn bè, không quan tâm chăm lo kinh tế gia đình, tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, cuộc sống hôn nhân căng thẳng không thể dung hòa được. Hiện tại chị và anh V sống ly thân, vợ chồng không còn sự quan tâm và trách nhiệm đến nhau. Nay chị Lê Thị L xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lê Thiếu V để giải phóng hai bên khỏi ràng buộc bởi quan hệ hôn nhân.

Về con chung: Chị và anh Lê Thiếu V có 02 con chung là Lê Công Bình A, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2013 và Lê Gia H, sinh ngày 05 tháng 10 năm 2016. Ly hôn, chị L đề nghị Tòa án giao cả hai con chung cho chị nuôi dưỡng đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về việc cấp dưỡng nuôi con, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Lê Thiếu V: Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã nhiều lần tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Lê Thiếu V để anh V đến Toà án nhân dân huyện An Dương giải quyết việc chị Lê Thị L xin ly hôn nhưng anh V đều vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương, phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định tại các điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đối với bị đơn đã không đến Tòa án ghi bản tự khai; không đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải theo giấy triệu tập, thông báo của Tòa án; vắng mặt tại phiên tòa không có lý do đã vi phạm các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ quy định tại Điều 39 Bộ luật Dân sự; các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị Lê Thị L được ly hôn với anh Lê Thiếu V; giao các con chung Lê Công Bình A, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2013 và Lê Gia H, sinh ngày 05 tháng 10 năm 2016 cho chị Lê Thị L nuôi dưỡng cho đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về việc cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung không xem xét giải quyết. Chị Lê Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Chị Lê Thị L có đơn khởi kiện xin ly hôn với anh Lê Thiếu V. Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân và gia đình được quy định tại Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh Lê Thiếu V có địa chỉ đăng ký thường trú tại: Thôn 4, xã Bắc Sơn, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; cư trú tại tổ 7, thị trấn An Dương, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng.

[2] Về việc vắng mặt của các đương sự tại phiên tòa: Nguyên đơn là chị Lê Thị L vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Lê Thiếu V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện An Dương tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn chị Lê Thị L và bị đơn anh Lê Thiếu V.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Lê Thị L: Chị Lê Thị L và anh Lê Thiếu V kết hôn trên cơ sở tự nguyện và được Ủy ban nhân dân thị trấn An Dương, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 01 tháng 3 năm 2013, theo quy định tại Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình, đây là hôn nhân hợp pháp.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Tuy anh Lê Thiếu V không đến Tòa án, nên không có quan điểm của anh V về việc chị Lê Thị L xin ly hôn, nhưng căn cứ lời khai của nguyên đơn, căn cứ các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp và các chứng cứ do Tòa án thu thập có đủ cơ sở xác định: Chị Lê Thị L và anh Lê Thiếu V kết hôn và chung sống với nhau từ năm 2013. Trong cuộc sống phát sinh nhiều mâu thuẫn do tính cách không hợp, mâu thuẫn kinh tế, vợ chồng không có tiếng nói chung nên hôn nhân căng thẳng, hiện tại chị Lê Thị L và anh Lê Thiếu V sống ly thân, không còn sự quan tâm và trách nhiệm đến nhau. Xét quan hệ hôn nhân của chị Lê Thị L và anh Lê Thiếu V là không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần áp dụng khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Lê Thị L với anh Lê Thiếu V.

[5] Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lê Thị L và anh Lê Thiếu V có 02 con chung là Lê Công Bình An, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2013 và Lê Gia Hân, sinh ngày 05 tháng 10 năm 2016. Ly hôn, chị L đề nghị Tòa án giao các con chung cho chị nuôi dưỡng; việc cấp dưỡng nuôi con chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh Lê Thiếu V không có quan điểm về việc nuôi con. Xét thấy quan điểm của chị L là tự nguyện, phù hợp quy định của pháp luật và nguyện vọng của con chung nên chấp nhận. Khi nào anh V có yêu cầu về việc nuôi con chung hoặc chị L có yêu cầu về việc cấp dưỡng nuôi con, Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ việc dân sự khác.

[6] Về tài sản chung: Chị Lê Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh Lê Thiếu V không có quan điểm về vấn đề tài sản. Nên Tòa án không xem xét, giải quyết về vấn đề tài sản, khi nào các đương sự có yêu cầu Tòa án sẽ giải quyết bằng vụ việc dân sự khác.

[7] Về án phí sơ thẩm: Chị Lê Thị L là nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo Bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a, khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự;

- Căn cứ các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ Điều 6; điểm a, khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị L được ly hôn anh Lê Thiếu V 2. Về con chung: Giao các con chung Lê Công Bình A, sinh ngày 04 tháng 8 năm 2013 và Lê Gia H, sinh ngày 05 tháng 10 năm 2016 cho chị Lê Thị L nuôi dưỡng đến khi mỗi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con tạm thời không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lê Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm để sung Ngân sách Nhà nước. Chị L đã nộp số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm theo Biên lai thu tiền số 0004190 ngày 10 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương nên không phải nộp nữa.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 100/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:100/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về