Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 03/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 03/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30-3-2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 61/2021/TLST- HNGĐ, ngày 17 tháng 11 năm 2021, về việc “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 02/2022/QĐXX-ST ngày 23 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2022/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị K, sinh năm: 1979; HKTT và chổ ở hiện nay: X, phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. (Có mặt)

- Bị đơn: Anh Trịnh Phi H, sinh năm: 1978; HKTT và chổ ở hiện nay: X, phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá tố tụng nguyên đơn chị Nguyễn Thị K trình bày:

Chị Nguyễn Thị K với anh Trịnh Phi H tự do tìm hiểu, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện đến với nhau để xây dựng hạnh phúc gia đình, có đăng ký kết hôn kết hôn vào ngày 01-8-2001 tại UBND xã X, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận với nhau được khoảng thời gian hơn 18 năm. Đến năm 2019, vợ chồng thường phát sinh xuyên mâu thuẫn, nguyên nhân do chồng không chăm lo cho gia đình, thiếu trách nhiệm với gia đình, thường xuyên uống rượu say xỉn, không làm chủ được bản thân nhiều lần đánh đập vợ. Quá trình xẩy ra mâu thuẫn, vợ chồng đã nhiều lần được gia đình cũng như tổ dân phố tổ chức hòa giải nhưng chỉ được một thời gian sau đó anh Trịnh Phi H vẫn không sửa chữa mà vẫn chứng nào tật đó. Hiện nay, vợ chồng đã sống ly thân. Nay, chị Nguyễn Thị K nhận thấy tình cảm vợ chồng giữa chị với anh Trịnh Phi H không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Trịnh Phi H; Về con chung: Quá trình hôn nhân vợ chồng có 01 con chung là cháu Trịnh Thành Tr, sinh ngày 16- 4-2004. Nếu ly hôn, chị Nguyễn Thị K có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Trịnh Thành Tr và không yêu cầu anh Trịnh Phi H cấp dưỡng tiền nuôi con chung; Về tài sản và nợ chung: Chị Nguyễn Thị K không yêu cầu Tòa án giải quyết;

Tại phiên tòa hôm nay, anh Trịnh Phi H vắng mặt. Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản thủ tục tố tụng theo luật định nhưng anh Trịnh Phi H vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không rõ lý do. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án anh Trịnh Phi H có tham gia vào các buổi làm việc của Tòa án. Tại phiên họp công tiếp cận giao nộp công khai chứng cứ và hòa giải ngày 30-11-2021 anh Trịnh Phi H có trình bày: Anh nhất trí như những gì chị Nguyễn Thị K đã trình bày về quá trình đi đến hôn nhân. Anh nhận thấy tình cảm vợ chồng giữa anh với chị Nguyễn Thị K đang còn, anh mong muốn chị Nguyễn Thị K suy nghĩ lại và quay về đoàn tụ, xây dựng hạnh phúc gia đình để chăm lo con cái nên anh không đồng ý ly hôn. Về con chung: Quá trình hôn nhân vợ chồng có 01 con chung là cháu Trịnh Thành Tr, sinh ngày 16-4-2004. Nếu ly hôn anh Trịnh Phi H đồng ý giao cháu Trịnh Thành Tr cho chị Nguyễn Thị K trực tiếp trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Về tài sản và nợ chung: Anh Trịnh Phi H cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; về chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 71 và Điều 234 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Bị đơn đã không không thực hiện về quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các tài liệu có tại hồ sơ vụ án để giải quyết vụ án và tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cho chị Nguyễn Thị K được ly hôn anh Trịnh Phi H; về con chung: Đề nghị giao con chung cháu Trịnh Thành Tr, sinh ngày 16-4-2004 cho chị Nguyễn Thị K được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị K về việc không yêu cầu anh Trịnh Phi H phải cấp dưỡng nuôi con; về tài sản, nợ chung: Chị Nguyễn Thị K không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Chị Nguyễn Thị K có đơn khởi kiện xin ly hôn với anh Trịnh Phi H. Anh Trịnh Phi H có đăng ký hộ khẩu tại X, phường X, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh nên xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh theo điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Anh Trịnh Phi H đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án, tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ nhưng tại phiên tòa hôm nay vắng mặt, nên căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án để giải quyết vụ án và tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[3]. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị K và anh Trịnh Phi H, chung sống với nhau trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện, và có đăng ký kết hôn ngày 01-8- 2001 tại UBND xã Kỳ Tân, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống. Chị Nguyễn Thị K cho rằng anh Trịnh Phi H thiếu trách nhiệm với vợ con, thường xuyên rượu chè, say xỉn không làm chủ được bản thân về đánh đập vợ con. Mâu thuẫn vợ chồng nhiều lần đã được gia đình hòa giải đoàn tụ nhưng không thành. Hiện nay, vợ chồng sống ly thân, không quan tâm gì đến nhau. Do đó, nhận thấy tình cảm vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị K và anh Trịnh Phi H không còn, mâu thẫn gia đình trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần áp dụng Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, cho chị Nguyễn Thị K được ly hôn với anh Trịnh Phi H.

[4]. Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Trịnh Thành Tr, sinh ngày 16-4-2004. Xét thấy, chị Nguyễn Thị K có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Trịnh Thành Tr và anh Trịnh Phi H cũng đồng ý với nguyện vọng của chị Nguyễn Thị K. Vì vậy, giao cháu Trịnh Thành Tr cho chị Nguyễn Thị K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị K về việc không yêu cầu anh Trịnh Phi H phải cấp dưỡng nuôi con.

[5]. Về tài sản, nợ chung: Chị Nguyễn Thị K không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

[6]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị K là nguyên đơn nên phải nộp toàn bộ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị K được ly hôn với anh Trịnh Phi H.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Trịnh Thành Tr, sinh ngày 16-4- 2004 cho chị Nguyễn Thị K được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu Trịnh Thành Tr thành niên (Đủ tròn 18 tuổi) hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Nguyễn Thị K về việc không yêu cầu anh Trịnh Phi H phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở. Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con nếu họ lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hướng xấu đến đến việc trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị K phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0015514 ngày 17-11-2021 của Chi cục thi hành án Dân sự thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú cuối cùng.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

99
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 03/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:03/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kỳ Anh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về