bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn sô 14/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÒA BÌNH – TỈNH HÒA BÌNH

BN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 13 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:

137/2022/TLST-HNGĐ ngày 29/4/2022 về “ Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn ” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16 /2022/QĐXX-ST ngày 10/6/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 11/2022/QĐST-HNGĐ ngày 27/6/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1985.

ĐKHKTT: xóm NH, xã MH, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1983.

ĐKHKTT: xóm SN, xã MH, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.

Chị Th có mặt, anh Kh vắng mặt không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và tại lời khai trong suốt quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Th trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn Kh kết hôn năm 2004, có đăng ký kết hôn tại UBND xã MH, TP Hòa Bình trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu.

Sau khi cưới chị về nhà anh Kh sinh sống cho đến khi sinh con trai là Nguyễn Văn K, được khoảng 03 năm thì anh Kh thay đổi tính nết, thường xuyên rượu chè, say xỉn, không chịu làm ăn, bỏ bê vợ con. Mỗi khi say rượu về anh Kh lại còn đánh đập vợ con. Từ năm 2011 đến 2013 anh Kh phải đi tù về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, sau khi cải tạo về tính cách anh Kh vẫn không thay đổi, không tu chí làm ăn. Thời gian đó hai mẹ con chị đã về nhà ngoại sinh sống, anh Kh cũng bỏ nhà đi làm ăn ở đâu không rõ địa chỉ, vợ chồng anh chị sống ly thân từ đó đến nay đã nhiều năm. Tình cảm vợ chồng không còn nên chị xin được ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Văn K, sinh ngày 19/12/2004. Khi ly hôn chị Th có nguyện vọng xin được nuôi con và không yêu cầu anh Kh phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và công nợ chung: Không có.

Ti biên bản lấy lời khai của bà Nguyễn Thị T (mẹ đẻ anh Kh) cho biết: Bà đã nhận được các giấy triệu tập, thông báo và các văn bản tố tụng của Tòa án. Vì anh Kh không có mặt ở nhà nên bà đã không giao được các văn bản trên, tuy nhiên thông qua điện thoại bà đã thông báo đến cho anh Kh biết và vì bận công việc nên anh Khiêm không về giải quyết được. Anh Kh cũng đề nghị Tòa án giải quyết vụ việc trên theo quy định của pháp luật. Về mâu thuẫn vợ chồng bà không nắm rõ, chỉ biết vợ chồng anh chị Th Kh đã sống ly thân khoảng 07 đến 08 năm nay, mỗi người một nơi, tình cảm vợ chồng không còn.

Đại diện xóm SN, xã MH cho biết: Anh Nguyễn Văn Kh có hộ khẩu thương trú và sinh sống tại xóm SN, xã MH, TP Hòa Bình, chưa cắt khẩu hay tạm trú nơi khác. Hiện đã nhiều năm anh Kh đã vắng mặt tại địa phương, đi đâu không rõ địa chỉ. Thông qua gia đình cũng được biết thỉnh thoảng anh Kh có về thăm nhà, tuy nhiên sau đó lại đi luôn trong đêm.

Ti biên bản xác minh ngày 09/5/2022 công an xã MH cho biết: Theo sổ hộ khẩu năm 2005 anh Nguyễn Văn Kh có hộ khẩu tại xóm SN, xã MH (chủ hộ là Nguyễn Thị T). Từ năm 2011 – 2013 anh Kh đi thụ hình về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Sau khi thụ hình xong anh Kh cũng không về địa phương sinh sống, cũng không cắt khẩu, chuyển khẩu, xin tạm trú nơi nào khác.

Qúa trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành triệu tập, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Kh theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên anh Kh đã không có mặt tại địa phương, do vậy Tòa án phải niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật.

Nguyên đơn đã có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải, vì bị đơn cố tình trốn tránh, gây khó khăn. Do đó vụ án không thể tiến hành hòa giải được.

Ngày 27/6/2022 vụ án được đưa ra xét xử, bị đơn anh Kh vắng mặt nên phiên tòa phải hoãn lần thứ nhất. Hôm nay bị đơn vẫn tiếp tục vắng mặt không có lý do.

Ti phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình phát biểu ý kiến: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là cho chị Th được ly hôn anh Kh. Về con chung: Khi ly hôn giao cháu Nguyễn Văn K cho chị Th nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Về tài sản chung và nợ chung: Không có. Chị Th phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

n cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng dân sự:

- Chị Nguyễn Thị Th khởi kiện xin ly hôn với anh Nguyễn Văn Kh. Hiện anh Kh có đăng ký hộ khẩu thường trú tại: xóm SN, xã MH, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Căn cứ khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình.

- Vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được theo khoản 1, khoản 4 Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Tòa án đã tiến hành triệu tập, thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Văn Kh. Mặc dù biết việc triệu tập nhưng anh Kh không tới Tòa án để giải quyết, cố tình trốn tránh. Theo quy định tại Điều 70 của Bộ luật tố tụng dân sự: Đương sự phải có nghĩa vụ tôn trọng Tòa án, phải có mặt theo giấy triệu tập và chấp hành quyết định của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án. Như vậy, anh Kh đã từ bỏ quyền lợi của mình về việc được nêu quan điểm, ý kiến và cung cấp chứng cứ chứng minh. Theo Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa chỉ căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu do nguyên đơn cung cấp cũng như các tài liệu mà Tòa án đã tiến hành xác minh, thu thập để làm căn cứ giải quyết vụ án.

- Về sự có mặt của đương sự, Tòa án đã triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Văn Kh kết hôn năm 2004, có đăng ký kết hôn tại UBND xã MH, TP Hòa Bình, trên cơ sở tự nguyên tìm hiểu tự nguyện là đúng quy định của pháp luật hôn nhân gia đình. Quá trình chung sống vợ chồng đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Kh thường xuyên rượu chè, say xỉn, đánh đập vợ con, không tu chí làm ăn, bỏ bê gia đình. Từ khoảng năm 2013 anh Kh đã bỏ nhà đi đâu không rõ địa chỉ, vợ chồng sống ly thân mỗi người một nơi, không quan tâm tới nhau. Chị Th xin ly hôn vì vợ chồng đã không còn tình cảm. Căn cứ vào lời khai của đương sự và kết quả xác minh, Hội đồng xét xử thấy rằng mâu thuẫn giữa chị Th và anh Kh đã căng thẳng, kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Th.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 01 con trai tên là Nguyễn Văn K, sinh ngày 19/12/2004. Hiện anh Kh không có mặt tại địa phương, đi làm ăn xa, không rõ địa chỉ, do đó không có điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng cháu K. Tại biên bản lấy lời khai của cháu K ngày 10/5/2022 đã thể hiện ý chí của cháu K muốn được ở với mẹ. Chị Th có nguyện vọng xin được nuôi cháu K. Xét nguyện vọng trên của nguyên đơn là phù hợp nên Tòa cần chấp nhận. Về việc cấp dưỡng nuôi con chị Th không yêu cầu nên Tòa không xem xét. Anh Kh có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[4]. Về tài sản chung và nợ chung:

Đương sự khai không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. [5] Về án phí: Chị Th phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

n cứ khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 207; Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

n cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56, 57, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

n cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Th được ly hôn anh Nguyễn Văn Kh.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Nguyễn Văn K, sinh ngày 19/12/2004. Về cấp dưỡng nuôi con, chị Th không yêu cầu nên Tòa không đề cập giải quyết. Anh Kh có quyền đi lại thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và công nợ chung: Không có.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chị Th đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hòa Bình theo biên lai số 0001394, ngày 26/4/2022. Xác nhận chị Th đã nộp đủ án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Th có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Kh có quyền kháng cáo với thời hạn trên, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn sô 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về