Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 08/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 08/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/12/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 28 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 42/2021/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2021 về việc: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2021/QĐXX-ST ngày 10 tháng 12 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị K – SN: 1994 HKTT và địa chỉ hiện nay: Số 11/19/28 N, phường Lam S, TP T, tỉnh Thanh Hóa.

Bị đơn: Anh Lê Ngọc L - SN 1992 HKTT: Số 11/19/28 N, phường Lam S, TP T, tỉnh Thanh Hóa Hiện nay anh L đang giam tại Trại giam số 5, Bộ Công an; Địa chỉ: Thị trấn Thống N, huyện Y, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị K trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Lê Ngọc L kết hôn với nhau vào năm 2016, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Lam S, Thành phố T. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc tại số nhà 11/19/28 N, phường Lam S, TP T đến năm 2020 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không hợp, quan điểm cách sống khác nhau hơn nữa do anh L vi phạm pháp luật và đang phải đi chấp hành án dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt. Mâu thuẫn của anh chị đã được gia đình hai bên hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Anh chị đã sống ly thân nhau từ giữa năm 2021 cho đến nay. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh L.

Về con: Anh chị có 01 con chung: cháu Lê Ngọc Trúc L1 - SN 26/7/2017. Ly hôn, chị đề nghị giao cháu L1 cho chị trực tiếp nuôi dưỡng và anh L không phải cấp dưỡng nuôi con .

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai bị đơn anh Lê Ngọc L trình bày:

Về hôn nhân: Thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn, nguyên nhân mâu thuẫn anh đồng ý như chị K trình bày. Từ giữa năm 2021 cho đến nay thì anh và chị K đã sống ly thân nhau. Nay chị K có đơn xin ly hôn, anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh đồng ý ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết.

Về con: Anh chị có 01 con chung như chị K trình bày. Anh đồng ý giao cháu Lê Ngọc Trúc L1 cho chị K trực tiếp nuôi dưỡng và anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh L. Tuy nhiên do anh L đang phải chấp hành án không thể đến Tòa để tham gia nên đã có đơn xin hòa giải và xét xử vắng mặt Tại phiên tòa hôm nay chị K vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày và không có ý kiến gì khác.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và việc chấp hành của nguyên đơn, kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Đối với bị đơn đã tống đạt hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 228 để xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định của pháp luật.

Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng: Đây là vụ án ly hôn, bị đơn cư trú tại Thành phố T. Do vậy Tòa án Thành phố T thụ lý, giải quyết là đúng quy định theo khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Tòa án đã triệu tập hợp lệ đối với anh L để tham gia phiên tòa nhưng anh L đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Chị K đề nghị Tòa án tiến hành xét xử. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của BLTTDS Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt anh L là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

Về hôn nhân: Chị Lê Thị K và anh Lê Ngọc L kết hôn với nhau vào năm 2016 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình giải quyết vụ án anh chị đều thừa nhận vợ chồng chung sống có mâu thuẫn xảy ra và đã sống ly thân nhau. Kết quả thu thập chứng cứ tại địa phương thể hiện: Quá trình chung sống anh chị có xảy ra mâu thuẫn. Năm 2021 anh L vi phạm pháp luật nên đang phải đi chấp hành án.

Xét thấy mâu thuẫn của anh chị đã kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh chị đều thống nhất ly hôn, do đó chấp nhận việc thuận tình ly hôn của anh chị. Căn cứ Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con: Anh chị đều thống nhất có 01 con chung và thỏa thuận giao cháu chị K trực tiếp nuôi dưỡng, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Xét việc thỏa thuận của anh chị là tự nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

Về tài sản, công nợ: Anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết nên hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị K phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/QH14.

Về quyền kháng cáo: Chị K và anh L được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271, thời hạn kháng cáo được quy định tại Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điều 55; Điều 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; khoản 1 Điều 273 BLTTDS. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa chị Lê Thị K và anh Lê Ngọc L

Về con: Công nhận cháu Lê Ngọc Trúc L1 - SN 26/7/2017 là con chung của chị K và anh L. Giao cháu L1 cho chị K trực tiếp nuôi dưỡng, anh L không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh L có quyền đi lại thăm nom con chung, không được ai cản trở.

Về tài sản, công nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Án phí: Chị Lê Thị K phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ chị đã nộp theo biên lai số AA/2018/0001323 ngày 29/10/2021 tại chi cục Thi hành án dân sự Thành phố T (Chị K đã nộp đủ án phí).

Chị K có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 08/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về