Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 01/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 01/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/01/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 04 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 19/2020/HNGĐ - TLST ngày 04/02/2020 về việc “ Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 12/10/2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 89/2020/QĐ-ST ngày 04/11/2020 và số 95/2020/QĐ-ST ngày 04/12/2020 giữa:

1. Nguyên đơn : Anh Phạm Minh Đ, sinh năm1983.

Địa chỉ: Thôn H, xã Q, huyện T, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và đề nghị giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Chị J, sinh năm 1982.

Địa chỉ: Số 278, ngõ 213, đường N, thành phố P, Đài Trung, Đài Loan (Trung Quốc). Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai - Nguyên đơn anh Phạm Minh Đ trình bày:

Anh và chị J đã có thời gian chung sống cùng nhau tại Đài Loan (Trung Quốc) và có 01 con chung. Đến tháng 11/2008 anh và chị J về Việt Nam để làm thủ tục kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống ở gia đình anh Đ đến tháng 4/2009 thì chị J bỏ về Đài Loan (Trung Quốc) để lại con cho anh chăm sóc, nuôi dưỡng. Từ đó đến nay chị J chưa về Việt Nam lần nào, vợ chồng không còn liên lạc với nhau. Nay anh xác định tình cảm vợ không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị J theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Vợ chồng có 1 con chung là Phạm Anh Đ, sinh ngày 21/6/2008 hiện đang ở với anh Đ. Anh Đ có nguyện vọng được nuôi con, tự nguyện không yêu cầu chị J phải cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Cháu Phạm Anh Đ có quan điểm, nếu bố mẹ cháu ly hôn, cháu có nguyện vọng được ở với anh Đ.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử (viết tắt HĐXX), nguyên đơn thực hiện đúng các quy định của của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn thực hiện chưa đúng về quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về quan việc quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của anh Phạm Minh Đ và chị J đã kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho anh Đ được ly hôn chị J. Về con chung. Giao con chung là Phạm Anh Đ, sinh ngày 21/6/2008 cho anh Đ chăm sóc, nuôi dưỡng. Chấp nhận sự tự nguyện của anh Đ không yêu cầu chị J phải cấp dưỡng cho con. Anh Đ phải chịu án phí, lệ phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án anh Đ cung cấp địa chỉ của chị J tại: Số 278, ngõ 213, đường Th, Thành phố P, Đài Trung, Đài Loan (Trung Quốc) là địa chỉ trước khi về Việt Nam kết hôn. Ngoài địa chỉ trên anh Đ không cung cấp được địa chỉ nào khác. Tòa án đã gửi hồ sơ ủy thác tư pháp tới Bộ tư pháp để thực hiện ủy thác theo quy định của pháp luật. Tòa án đã nhận được công văn số 1008/CH- BTP ngày 15 tháng 4 năm 2020 của Bộ tư pháp, thể hiện việc Bộ tư pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã gửi văn bản ủy thác đến Bộ tư pháp lãnh thổ Đài Loan (Trung Quốc) để thực hiện việc ủy thác với chị J. Tuy nhiên đến thời gian xét xử, Tòa án không nhận được kết quả của việc ủy thác tư pháp. Ngày 12/10/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã có công văn số 89/TTTPDS- TA26 “ V/v tương trợ tư pháp lần 2” gửi Bộ tư pháp có nội dung hỏi kết quả ủy thác đối với chị J. Tuy nhiên đến nay Tòa án không nhận được kết quả trả lời. Do vậy căn cứ khoản 1 Điều 228; khoản 4 Điều 477 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX vẫn xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Minh Đ và chị J kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng lý kết hôn tại Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương ngày 12/11/2008 do vậy là hôn nhân hợp pháp. Sau ngày cưới chị J sống ở Việt Nam, vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Tháng 4/2009 chị J về Đài Loan (Trung Quốc) sinh sống từ đó đến nay không sang Việt Nam, vợ chồng chấm dứt liên lạc. Xét thấy anh Đ và chị J sống ly thân đã lâu, cuộc sống vợ chồng không tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đ, xử cho anh Đ ly hôn chị J là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về quan hệ nuôi con: Anh Phạm Minh Đ và chị J có một con chung là Phạm Anh Đài, sinh ngày 21/6/2008. Hiện đang ở với anh Đ và có nguyện vọng được ở với anh Đ. Xét thực tế cháu Đ từ nhỏ ở với anh Đ, đang học tập và phát triển tốt, chị J không ở Việt Nam nên không đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Do đó HĐXX cần tiếp tục giao con chung cho anh Đức nuôi dưỡng là phù hợp với các Điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Chấp nhận sự tự nguyện của anh Đức không yêu cầu chị J phải cấp dưỡng cho con. Chị J có quyền làm đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền để giải quyết yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Anh Phạm Minh Đ xác định không có tài sản chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Do vậy HDXX không xem xét giải quyết. Trường hợp chị J có yêu cầu giải quyết về tài sản chung khi ly hôn (nếu có căn cứ) thì có quyền làm đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền để xem xét giải quyết bằng vụ án khác.

[3].Về án phí, lệ phí: Anh Phạm Minh phải chịu án phí, lệ phí ủy thác hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51; 56; 81; 82 Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, khoản 3 Điều 153, Điều 479 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a, Khoản 5, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Phạm Minh Đ ly hôn chị Juan, T

2. Về quan hệ nuôi con: Xử giao cho anh Phạm Minh Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là Phạm Anh Đ, sinh ngày 21/6/2008 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi trưởng thành. Chấp nhận sự tự nguyện của anh Phạm Minh Đức không yêu cầu chị J phải cấp dưỡng cho con.

Không ai được cản trở chị J thực hiện quyền, nghĩa vụ trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Anh Phạm Minh Đ phải chịu 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình), được đối trừ số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí do chị Luân Thị N nộp thay theo biên lai thu số AA/2018/0000771 ngày 08 tháng 01 năm 2020 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

4. Về Lệ phí ủy thác tư pháp: Anh Phạm Minh Đ phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) lệ phí ủy thác tư pháp, được đối trừ số tiền tạm ứng lệ phí do chị Luân Thị Nương nộp thay theo biên lai thu số AA/2018/0002094 ngày 11/3/2020 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Phạm Minh Đ được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Chị J được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 12 (mười hai) tháng, kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 01/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:01/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về