Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn số 65/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BN ÁN 65/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN 

Ngày 28 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 270/2021/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 12 năm 2021, về việc Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 51/2022/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 4 năm 2022 giữa:

1.Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Ú - Sinh năm 1984 Địa chỉ: Thôn Ph, xã H, Thành phố C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và đề nghị xét xử vắng mặt.

2.Bị đơn: Anh Hoàng Văn Ph - Sinh năm 1980. Vắng mặt.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn P, xã H, Thành phố C, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Đài Loan (Trung Quốc).

3.Người làm chứng: Bà Phạm Thị C – Sinh năm 1943. Vắng mặt. Địa chỉ: Thôn P, xã H, thành phố C, tỉnh Hải Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn chị Vũ Thị Út trình bày: Chị và anh Hoàng Văn Ph tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện C (nay là Thành phố C), tỉnh Hải Dương ngày 02/3/2002. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không hòa hợp trong cuộc sống, vợ chồng chạy chữa nhiều nơi nhưng chậm có con nên gia đình luôn căng thẳng, tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, không có hạnh phúc. Lần cuối cùng anh Ph đi xuất khẩu lao động ở Đài Loan (Trung Quốc) là ngày 22/7/2019. Từ đó vợ chồng không còn quan tâm, liên lạc với nhau. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh Ph theo quy định.

Về con chung: Vợ chồng chị có một con chung là Hoàng Vũ Ngọc L – Sinh ngày 15/8/2019 hiện đang ở với chị. Nay ly hôn chị có nguyện vọng nuôi con và không yêu cầu anh Ph phải cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại lời khai của bà Phạm Thị C (mẹ đẻ anh Ph) thể hiện: Anh Ph hiện đang sinh sống và lao động ở Đài Loan (Trung Quốc), gia đình không biết địa chỉ cụ thể. Nguyên nhân mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa anh Ph và chị Ú là do vợ chồng không hòa hợp, vợ chồng hiếm muộn, khó sinh con nên dẫn đến mâu thuẫn. Khi chị Ú sinh con vào năm 2019 thì bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, còn anh Ph đi lao động ở nước ngoài. Vợ chồng không có sự quan tâm lẫn nhau. Nay chị Ú có đơn ly hôn, bà đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Anh Ph cũng thường xuyên liên lạc với gia đình và có quan điểm xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. Về con chung nhất trí để chị Ú trực tiếp nuôi con. Về tài sản chung: Không đề nghị Tòa án giải quyết trong vụ án này, sau này vợ chồng tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được sẽ đề nghị giải quyết trong vụ án khác. Anh Ph đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Tòa án xác minh tại địa phương nơi đương sự sinh sống thể hiện: Anh Ph và chị Ú có đăng ký kết hôn tại địa phương. Trong quan hệ hôn nhân đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp trong cuộc sống, vợ chồng hiếm muộn, khó có con nên không có hạnh phúc. Nay chị Ú có đơn ly hôn, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, chị Ú vắng mặt và có đơn đề nghị giữ nguyên đối với yêu cầu khởi kiện. Anh Ph đề nghị giải quyết vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử (HĐXX) thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Đối với các đương sự: Cơ bản thực hiện đúng các quy định của BLTTDS về quyền, nghĩa vụ. Về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56, 81, 82, 83 Luật HN&GĐ, Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết 326 quy định về mức thu, miễn giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị Ú ly hôn anh Hoàng Văn Ph; Giao cho chị Út trực tiếp nuôi dưỡng con chung Hoàng Vũ Ngọc L – Sinh ngày 15/8/2019, chấp nhận sự tự nguyện của chị Út không yêu cầu cấp dưỡng cho con. Về án phí: Chị Ú phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, HĐXX nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Vũ Thị Ú sinh sống ở Việt Nam, bị đơn anh Hoàng Văn Ph có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh ở xã H, thành phố C, tỉnh Hải Dương, hiện đang lao động tại Đài Loan (Trung Quốc), không rõ địa chỉ cụ thể. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị Út và gia đình không cung cấp được địa chỉ cụ thể của anh Ph ở nước ngoài. Tòa án cũng đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Mặt khác, bà Phạm Thị C là mẹ đẻ anh Ph vẫn thường xuyên liên lạc với anh nên Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng cho gia đình để thông báo cho anh Ph biết. Tại phiên tòa, chị Ú vắng mặt và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Anh Ph vắng mặt và đề nghị giải quyết vắng mặt. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị Út và anh Hoàng Văn Ph tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện C (nay là Thành phố Chí Linh), tỉnh Hải Dương ngày 02/3/2002 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không hòa hợp do hiếm muộn trong việc sinh con nên gia đình luôn căng thẳng, tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, không có hạnh phúc. Cuối năm 2019 chị về nhà bố mẹ đẻ sinh sống còn anh Ph đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài, từ đó vợ chồng không còn quan tâm tới nhau. Bản thân anh Ph cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Ú và anh Ph đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được và được chứng minh qua lời khai của các đương sự, đại diện gia đình và chính quyền địa phương nơi các đương sự sinh sống. Căn cứ Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Vũ Thị Ú ly hôn anh Hoàng Văn Ph.

[2.2] Về quan hệ nuôi con: Chị Vũ Thị Ú và anh Hoàng Văn Ph xác định có một con chung là Hoàng Vũ Ngọc L – Sinh ngày 15/8/2019, HĐXX xét thấy con chung hiện còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ và hiện chị Ú đang nuôi dưỡng, anh Phượng cũng nhất trí để chị Ú trực tiếp nuôi con. Do vậy giao cho chị Ú trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là phù hợp. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Ú không yêu cầu anh Ph phải cấp dưỡng cho con. Như vậy là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Ú không không đề nghị Tòa án giải quyết. Anh Ph đề nghị vợ chồng tự thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được sẽ đề nghị giải quyết sau. Do vậy, HĐXX không đặt ra giải quyết trong vụ án này. Các đương sự có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết về phần tài sản chung, nợ chung (nếu có) và sẽ được xem xét, giải quyết trong vụ án khác.

[3]. Về án phí: Nguyên đơn chị Vũ Thị Ú phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Vũ Thị Ú ly hôn anh Hoàng Văn Ph.

2. Về nuôi con: Giao cho chị Vũ Thị Ú trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Hoàng Vũ Ngọc L – Sinh ngày 15/8/2019 cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi). Chấp nhận sự tự nguyện của chị Vũ Thị Ú không yêu cầu anh Hoàng Văn Ph phải cấp dưỡng cho con.

Không ai được cản trở anh Hoàng Văn Ph thực hiện quyền, nghĩa vụ trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3.Về án phí: Chị Vũ Thị Ú phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và được đối trừ số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2020/0004611 ngày 03 tháng 11 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn số 65/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:65/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về