TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂN PHÚ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 657/2022/HNGĐ-ST NGÀY 01/07/2022 VỀ LY HÔN
Ngày 01-7-2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 536/2021/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 312/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 370/2022/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Minh H, sinh năm 198; Địa chỉ: phường G, phường Tân Quý, quận Tân Phú, TPHCM
Bị đơn: Bà Lê Thị Phương T, sinh năm 199; Địa chỉ: phường G, phường Tân Quý, quận Tân Phú, TPHCM (Tại phiên tòa: nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày 22/10/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn ông Nguyễn Minh H trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Ông và bà Lê Thị Phương T tự nguyện chung sống, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Tân Quý, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh theo Giấy chứng nhận kết hôn số A ngày 28/06/2019.
Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng đến năm 2020 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do xung đột giữa bà T và gia đình ông dẫn đến vợ chồng thường xuyên gây gắt. Ông đã cố gắng để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không có kết quả, càng ngày mâu thuẫn càng trầm trọng hơn. Nay ông yêu cầu ly hôn để ổn định cuộc sống, bởi vì tình cảm của ông dành cho bà T không còn, không thể tiếp tục chung sống được nữa.
Về quan hệ con chung: Ông và bà T có một con chung tên Nguyễn Phương K, sinh ngày 10/08/202. Sau khi ly hôn, do con chung còn nhỏ nên ông đồng ý giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, hàng tháng ông sẽ cấp dưỡng nuôi con là 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng/tháng).
Về tài sản chung: Ghi nhận lời khai của ông H là không có Về nợ chung : Ghi nhận lời khai của ông H là không có Toà án đã tổ chức cho các bên hoà giải nhưng không tiến hành hòa giải được do bà T vắng mặt nên nên Toà án lập biên bản không tiến hành hoà giải được và đưa vụ án ra xét xử theo luật định.
Tại phiên toà hôm nay:
- Nguyên đơn ông H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.
- Bị đơn bà T vắng mặt không có lý do.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Tân Phú có ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật: Đương sự, Thư ký và Hội đồng xét xử đều tuân theo pháp luật được qui định tại Điều 48, Điều 51, Điều 63, Điều 203, Từ Điều 239 đến Điều 267 Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cụ thể: ông H được ly hôn với bà T; Giao con chung tên Nguyễn Phương K, sinh ngày 10/08/202 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng, ông H cấp dưỡng nuôi con 5.000.000 đồng/tháng. Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không có.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số A ngày 28/06/2019 do Ủy ban nhân dân phường Tân Quý, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông H, bà T thì quan hệ hôn nhân giữa ông H và bà T là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận. Bà T có nơi cư trú tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh. Nay ông H yêu cầu ly hôn, Toà án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý giải quyết là phù hợp với khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về thủ tục xét xử vắng mặt bị đơn: Toà án đã tống đạt Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập đương sự, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên toà cho bà T theo quy định tại Điều 177 Bộ luật tố tụng dân sự nhưng bà T vẫn vắng mặt. Do vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bà T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về yêu cầu của đương sự:
Bà T không có mặt tại toà án để trình bày lời khai, không tham dự các buổi hòa giải cũng như vắng mặt tại phiên toà hôm nay mặc dù đã được Toà án thực hiện các thủ tục tống đạt hợp lệ. Do đó, toà án căn cứ những chứng cứ, yêu cầu của phía ông H để xem xét giải quyết vụ án.
- Về quan hệ hôn nhân: Ông H yêu cầu ly hôn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không tôn trọng với nhau. Tại các buổi hòa giải cũng như tại phiên tòa hôm nay, ông H xác nhận không còn tình cảm với bà T, không muốn tiếp tục chung sống với bà T. Tòa án đã tổ chức các phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng bà T vắng mặt điều đó thể hiện bà T không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Hội đồng xét xử xét thấy, nguyên tắc cơ bản của hôn nhân là tự nguyện, mục đích hôn nhân là “vợ chồng cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc”, trong trường hợp này giữa ông H và bà T đã xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn. Căn cứ khỏan 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông H.
- Về quan hệ con chung: Ông H và bà T có một con chung tên Nguyễn Phương K, sinh ngày 10/08/202. Khi ly hôn, ông H đồng ý giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng.
Xét, việc giao con chung cho ai là người trực tiếp nuôi dưỡng phải dựa vào quyền lợi của con. Hiện nay trẻ Phương K dưới 36 tháng tuổi, cần sự quan tâm, chăm sóc của mẹ nhiều hơn, do đó, để đảm bảo lợi ích mọi mặt của trẻ, Hội đồng xét xử xét thấy giao trẻ Phương K cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên có cơ sở chấp nhận.
- Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Khi ly hôn, ông H giao con chung cho bà T nuôi dưỡng và đề nghị cấp dưỡng nuôi con 5.000.000 đồng/tháng. Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của ông H đối với nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, theo đó: Ông H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung là 5.000.000 đồng/tháng. Bắt đầu thực hiện từ tháng 8-2022, thực hiện vào ngày 16 mỗi tháng và chấm dứt theo Điều 118 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
- Về quan hệ tài sản chung: Ghi nhận lời khai của ông H là không có tài sản chung.
- Về nợ chung: Ghi nhận lời khai của ông H là không có nợ chung.
[3] Về án phí Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì ông H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng và án phí đối với nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con là 300.000 đồng. Tổng cộng là 600.000 đồng, số tiền án phí trên được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà ông H đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0034741 ngày 03/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Phú. Ông H phải nộp thêm số tiền án phí là 300.000 đồng.
Vì các lẽ nêu trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 107, Điều 110, Điều 116 và Điều 117 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Minh H - Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Minh H được ly hôn với bà Lê Thị Phương T.
Quan hệ hôn nhân giữa ông H và bà T theo Giấy chứng nhận kết hôn số A ngày 28/06/2019 do Ủy ban nhân dân phường Tân Quý, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh cấp cho ông H, bà T chấm dứt kể từ ngày bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
- Về quan hệ con chung: Giao trẻ tên Nguyễn Phương K, sinh ngày 10/08/202 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng. Ông H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 5.000.000 đồng/tháng (Năm triệu đồng/tháng). Bắt đầu thực hiện từ tháng 8/2022, thực hiện vào ngày 16 (Mười sáu) mỗi tháng và chấm dứt theo Điều 118 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.
Địa điểm thi hành: Tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành chưa thi hành án thì phải chịu lãi suất phát sinh do chậm thi hành theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.
+ Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng do các bên tự thỏa thuận. Nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa giải quyết.
+ Ông H được quyền thăm nom con, không ai được cản trở.
+ Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha mẹ hoặc cá nhân, tổ chức (người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ), Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
- Về quan hệ tài sản chung: Ghi nhận lời khai của ông H về việc ông H và bà T không có tài sản chung.
- Về nợ chung: Ghi nhận lời khai của ông H về việc ông H và bà T không có nợ chung.
2. Về án phí:
Ông H chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng và án phí đối với nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 300.000 đồng. Tổng cộng là 600.000 đồng. Số tiền án phí trên được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà ông H đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0034741 ngày 03/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Phú. Ông H phải nộp thêm số tiền án phí là 300.000 đồng.
Thi hành tại Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.
3. Quyền kháng cáo:
Ông Nguyễn Minh H được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Lê Thị Phương T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn số 657/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 657/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tân Phú - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 01/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về