Bản án về ly hôn số 54/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỜ ĐỎ - THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 54/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 29 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cờ Đỏ, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 89/2022/TLST- HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2022 về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, nghĩa vụ chung. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:143/2022/QĐXX-ST ngày 29 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Trần Thị T, sinh năm 1976; Trú tại: Ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ. (có mặt)

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Bé T, sinh năm 1971; Trú tại: Ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn chị Trần Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Vào khoảng năm 1998, do mai mối, tìm hiểu, bà Trần Thị T và ông Nguyễn Văn Bé T tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới theo phong tục và có đăng ký kết hôn theo quy định. Thời gian đầu chung sống tình cảm vợ chồng hạnh phúc nhưng sau này phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do gia đình làm kinh tế thất bại dẫn đến ông Bé T thường xuyên ăn nhậu về đánh đập vợ con và không quan tâm gì đến gia đình. Bà T nhiều lần khuyên ngăn nhưng ông Bé T không thay đổi.Từ đó, mâu thuẩn vợ chồng ngày càng trầm trọng nên đã sống ly thân từ tháng 01/2022 cho đến nay. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng mâu thuẫn đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài được nên bà T khởi kiện xin được ly hôn với ông Bé T.

Về con chung: Có 03 con chung: Cháu Nguyễn Văn T, sinh năm 1993, cháu Nguyễn Thị T, sinh năm 1994 và cháu Nguyễn Văn Vũ L, sinh năm 2003. Hiện các cháu đã trưởng thành nên không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung: Không có.

Về nghĩa vụ chung: Không có.

Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn ông Nguyễn Văn Bé T vắng mặt không rõ lý do.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cờ Đỏ:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Trần Thị T và ông Nguyễn Văn Bé T.

Về nuôi con chung: Có 03 con chung: Cháu Nguyễn Văn T, sinh năm 1993, cháu Nguyễn Thị T, sinh năm 1994 và cháu Nguyễn Văn Vũ L, sinh năm 2003. Hiện các cháu đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết.

Về chia tài sản chung, nghĩa vụ chung: Tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi có phát sinh tranh chấp.

Về án phí Hôn nhân và gia đình: Bà T phải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã thẩm tra tại phiên tòa, qua kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật: Theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì tranh chấp giữa các bên được xác định là tranh chấp về Ly hôn, về nuôi con chung, chia tài sản khi ly hôn và nghĩa vụ chung. Tòa án thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về việc tham gia tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Văn Bé T vắng mặt lần thứ hai không rõ lý do. Căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ tiến hành xét xử vắng mặt ông Bé T.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân của bà T và ông Bé T được xác lập trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Do đó, có cơ sở xác định hôn nhân giữa bà T và ông Bé T là hợp pháp. Bà T xác định thời gian đầu chung sống, tình cảm vợ chồng hạnh phúc nhưng thời gian sau này thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do gia đình làm kinh tế thất bại dẫn đến ông Bé T thường xuyên ăn nhậu về đánh đập vợ con và không quan tâm gì đến gia đình. Từ đó, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên đã sống ly thân với nhau. Thời gian sống ly thân, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Bà T nộp đơn khởi kiện xin ly hôn, Tòa án thụ lý giải quyết thì cũng tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng ông Bé T đều vắng mặt không rõ lý do. Tại phiên tòa, bà T cương quyết xin ly hôn vì xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với ông Bé T, ông Bé T tiếp tục vắng mặt không rõ lý do. Ngoài ra, tại Biên bản xác minh thể hiện: Vợ chồng làm ăn thất bại dẫn đến thường xuyên cự cãi nhau và hiện đã sống ly thân với nhau. Điều đó chứng tỏ, mâu thuẫn tình cảm vợ chồng giữa bà T và ông Bé T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, bà T yêu cầu xin ly hôn với ông Bé T là có cơ sở nên chấp nhận.

[2.2] Về nuôi con chung: Có 03 con chung: Cháu Nguyễn Văn T, sinh năm 1993, cháu Nguyễn Thị T, sinh năm 1994 và cháu Nguyễn Văn Vũ L, sinh năm 2003, hiện các cháu đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Bà T xác định không có, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà, ông Bé T vắng mặt không rõ lý do nên không ghi nhận được ý kiến của ông Bé T về tài sản chung và nghĩa vụ chung của vợ chồng. Do đó, cần tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi phát sinh tranh chấp.

[3] Án phí: Nguyên đơn bà T phải chịu án phí theo quy định.

[4] Từ những căn cứ trên, việc đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cờ Đỏ tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227; Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Trần Thị T và ông Nguyễn Văn Bé T.

2. Về nuôi con chung: Có 03 con chung: Cháu Nguyễn Văn T, sinh năm 1993, cháu Nguyễn Thị T, sinh năm 1994 và cháu Nguyễn Văn Vũ L, sinh năm 2003, hiện các cháu đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết.

3. Về chia tài sản chung; Nghĩa vụ chung: Tách ra giải quyết thành vụ kiện khác khi có phát sinh tranh chấp.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà T phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0009294 ngày 19 tháng 4 năm 2022 thành tiền án phí. Công nhận bà T đã nộp xong.

5. Án tuyên công khai, có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn.

Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Cần Thơ xét xử theo trình tự phúc thẩm.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 7 a, Điều 7b và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 54/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:54/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cờ Đỏ - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về