Bản án về ly hôn số 40/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 40/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 14 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 423/2021/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 11 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 27/2022/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lê Thị T, sinh năm: 1969. (có mặt)

2. Bị đơn: Ông Lê Thành N, sinh năm: 1969. (vắng mặt) Cùng địa chỉ: Khu phố 2, phường V, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 03-11-2021, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn bà Lê Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Lê Thành N sau một thời gian tìm hiểu đã tự nguyện tiến đến hôn nhân và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường V, thị xã (nay là thành phố) P, tỉnh Ninh Thuận theo Giấy chứng nhận kết hôn số 105 ngày 12-12-2002. Trong quá trình chung sống, từ khi kết hôn cho đến nay vợ chồng bà thường xuyên mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, ông N thường xuyên nhậu nhẹt say xỉn về nhà đánh bà, đuổi bà và các con ra khỏi nhà, chính quyền địa phương nhiều lần đến làm việc, hòa giải nhưng không thành. Bà có nộp đơn xin ly hôn với ông N nhưng sau đó rút đơn về để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tuy nhiên, sau khi về chung sống, ông N không chịu sửa đổi, mà suốt ngày rượu chè say xỉn về nhà chửi mắng vợ con, gây mất trật tự tại địa phương mặc dù bà đã nhiều lần khuyên bảo nhưng ông vẫn không chịu thay đổi dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng thêm trầm trọng. Vợ chồng bà đã ly thân từ năm 2021 cho đến nay, mạnh ai nấy sống, không ai quan tâm đến ai. Nay tình cảm không còn nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Lê Thành N.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng bà có 02 con chung tên Lê Thành V, sinh năm: 1994 và Lê Thị Mỹ D, sinh năm: 2001. Hiện các con bà đã trưởng thành, lao động tự túc được.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Lê Thành N: Quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, ông N đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vắng mặt không có lý do và cũng không có văn bản trả lời cho Tòa án.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận phát biểu ý kiến:

Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án luôn tuân thủ theo pháp luật tố tụng dân sự. Những người tham gia tố tụng là nguyên đơn luôn chấp hành đúng pháp luật, riêng bị đơn đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định pháp luật.

Về nội dung giải quyết vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn bà Lê Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với bị đơn ông Lê Thành N, nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật là “Ly hôn” theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn có địa chỉ cư trú tại phường V, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận theo khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của bị đơn: Bị đơn ông Lê Thành N đã được Tòa án tiến hành thủ tục tống đạt hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông N tự nguyện tiến tới hôn nhân và có đăng ký kết hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp. Tại phiên tòa, bà T vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với lý do ông N thường xuyên nhậu nhẹt say xỉn về nhà chửi mắng bà, đuổi bà và các con ra khỏi nhà, nhiều lần gây mất trật tự tại địa phương, vợ chồng bà đã ly thân hơn 01 năm nay, mạnh ai nấy sống, không còn quan tâm đến nhau nên bà xác định không còn tình cảm với ông N và mong muốn được ly hôn. Lời trình bày của bà phù hợp với đơn xin xem xét do địa phương nơi vợ chồng bà cư trú xác nhận và biên bản xác minh của Tòa án tại địa phương. Hơn nữa, ông N mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông không đến Tòa làm việc và cũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu xin ly hôn của bà T. Chứng tỏ ông không thiết tha gì trong việc bảo vệ hạnh phúc gia đình của riêng mình, có thái độ bỏ mặc cuộc hôn nhân này. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa bà T và ông N đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Lê Thị T.

[4] Về con chung: Vợ chồng bà có 02 con chung tên Lê Thành V, sinh năm: 1994 và Lê Thị Mỹ D, sinh năm: 2001 đã trưởng thành, lao động tự túc được nên không xem xét.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Lê Thị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, phù hợp với những nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[7] Về án phí: Bà Lê Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị T được ly hôn với ông Lê Thành N.

2. Về án phí: Bà Lê Thị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0003632 ngày 03 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Bà Lê Thị T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

144
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 40/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:40/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về