Bản án về ly hôn số 324/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN P, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 324/2022/HNGĐ-ST NGÀY 09/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 09 tháng 9 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện P xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 223/2022/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2022 về việc Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 179/2022/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị V, sinh năm 1978 (có đơn xin vắng mặt).

Hộ khẩu thờng trú: tổ 12, ấp Phú B, xã Phú L, huyện P, tỉnh An Giang. Chỗ ở hiện tại: tổ 12, ấp Bá K, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai.

2. Bị đơn: anh L, sinh năm 1977 (vắng mặt).

Địa chỉ: tổ 12, ấp Phú B, xã Phú L, huyện P, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện ngày 23 tháng 5 năm 2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị V trình bày:

+ Quan hệ hôn nhân: sau thời gian tìm hiểu về tình cảm, năm 1996 chị anh L đồng ý kết hôn, năm 2020 đăng ký két hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện P, tỉnh An Giang, Giấy chứng nhận kết hôn số 46/2020, ngày 17/7/2020. Sau khi cưới anh chị sống chung gia đình nhà chồng, năm 1997 dọn ra ở riêng gần đó, bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do anh L thường xuyên uống rượu và cờ bạc, bỏ mặc gia đình, chị khuyên bảo anh không nghe mà còn có hành vi bạo lực đánh chị. Năm 2021 cả gia đình đi làm thuê tại tỉnh Đồng Nai, anh L vẫn không thay đổi đổ hết tiền vào việc ăn nhậu, cờ bạc và còn đánh chị. Từ tháng 02 năm 2022 đến nay chị ở riêng và vợ chồng ly thân, nhưng nhiều lần anh L đến chỗ ở đe dọa sẽ giết chị. Nay, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh L.

- Nuôi con chung: có 02 con chung tên: Nguyễn T, sinh năm 1997 đã lập gia đình và sống riêng; Nguyễn T1, sinh ngày 16/01/2004 đã thành niên và tự lao động nuôi sống bản thân. Chị V không yêu cầu giải quyết về con chung.

- Về chia tài sản và nợ chung: không có.

Ngày 06 tháng 7 năm 2022 chị V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn là anh L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, không cung cấp tài liệu, chứng cứ, không có lời khai và không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

Tại Bản tự khai ngày 06/7/2022 của cháu Nguyễn T1 trình bày, cha mẹ thường xuyên cãi nhau do cha say xỉn và cờ bac, cha có hành vi đánh mẹ. Từ khi cha mẹ ly thân cháu sống với mẹ, cha đến chỗ ở của mẹ gây sự và đe dọa. Cháu đang làm công nhân trong Công ty bao bì có thu nhập riêng và tự nuôi sống bản thân.

Tại biên bản xác minh ngày 05 tháng 8 năm 2022 của Toa án về tình trạng hôn nhân của chị Vvà anh L, được bà Nguyễn Thị Đẹp (là mẹ đẻ anh L) cho biết, năm 2021 anh L và chị Vmâu thuẫn do Liêm làm công nhân bị nhiễm hóa chất, Vân lạnh nhạt, từ tháng 02/2022 đến nay vợ chồng ly thân. Nay V xin ly hôn với L bà không có ý kiến, tùy Tòa án quyết định.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng anh L đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, cho thấy anh L chưa chấp hành đúng nghĩa vụ tố tụng dân sự.

Về giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị V đối với anh L theo khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; về nuôi con chung, anh chị có hai con chung là Nguyễn T và Nguyễn T1, cả hai con đã thành niên và có cuộc sống riêng, đương sự không có yêu cầu nên không xem xét; về chia tài sản và nợ chung không có; về án phí chị Vphải chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: chị V khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh L, Tòa án thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Chị V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố Tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị Vvà anh L.

[2] Về nội dung giải quyết vụ án:

[2.1] Hôn nhân của chị V và anh L là hợp pháp, vì anh chị có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Xét tình trạng hôn nhân của anh chị thấy rằng vợ chồng mâu thuẫn do anh L uống rượu nhiều, cờ bạc, không chăm lo gia đình, bỏ mặc chị Vmuốn sống ra sao thì sống và có hành vi bạo lực gia đình đánh chị V, từ lúc chị V khởi kiện ly hôn đến nay anh L không hàn gắn tình cảm vợ chồng, thời gian ly thân anh chị cũng không hàn gắn, mẹ anh L không có ý kiến, cháu T1 cho biết cha mẹ đã ly thân nhưng anh L vẫn đe dọa chị V, làm cho chị V bị giày vò về mặt tình cảm, đau khổ về tinh thần, anh chị không còn tình nghĩa vợ chồng. Cho thấy hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị V và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, cho ly hôn giữa chị V và anh L.

[2.2] Về nuôi con chung: hai cháu Nguyễn T, Nguyễn T1 đều đã thành niên và có cuộc sống tự lập. Hai bên đương sự không có yêu cầu giải quyết nên không đề cập.

[2.3] Về chia tài sản: không có [2.5] Về nợ chung: ghi nhận chị V xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.

[3] Về án phí sơ thẩm, chị V phải chịu án phí hôn nhân theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Quan hệ hôn nhân: cho ly hôn giữa chị V và anh L. Giấy chứng nhận kết hôn số 46/2020, ngày 17/7/2020 của Ủy ban nhân dân xã Phú Lâm, huyện P, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

2. Về nuôi con chung: hai cháu Nguyễn T, sinh năm 1997; Nguyễn T1, sinh ngày 16/01/2004 đều đã thành niên và có cuộc sống tự lập. Hai bên đương sự không có yêu cầu giải quyết nên không đề cập.

3. Về chia tài sản: không có.

Về nợ chung: ghi nhận chị V xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác.

4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm:

- Chị V phải chịu án phí 300.000 đồng, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0005137 ngày 07/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện P, tỉnh An Giang.

5. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

32
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 324/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:324/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: đang cập nhật
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về