Bản án về ly hôn số 29/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN - TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 29/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/04/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 25/4/2022, tại Hội trường Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 51/ TLST- HNGĐ ngày 27/01/2022 về việc “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2022/QĐXX- ST ngày 06/4/2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thanh T, sinh năm 1984. Có mặt HKTT: Tổ 16 mới (tổ 24 cũ), phường P, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên

*Bị đơn: Anh Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1981. Có đơn xin xét xử vắng mặt HKTT: Tổ 16 mới (tổ 24 cũ), phường P, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên Hiện đang cải tạo tại đội 20, phân trại K1, trại giam PS4.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn, các bản khai tại Tòa án chị Nguyễn Thanh T trình bày: Chị và anh Nguyễn Tuấn A kết hôn năm 2010 có đăng ký kết hôn tại UBND phường P, thành phố TN trên cơ sở tự nguyện có tổ chức cưới hỏi theo nghi thức truyền thống của dân tộc. Sau khi kết hôn anh chị sinh sống tại nhà riêng ở phường Túc Duyên, thành phố Thái Nguyên. Thời gian đầu vợ chồng hạnh phúc, sau đó bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hiểu nhau, không tin tưởng dẫn đến cãi vã . Đến năm 2013, anh Tuấn A bị bắt về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và đi chấp hành án tại trại giam PS4 thì chị và các con chuyển về sinh sống tại tổ 24 (nay là tổ 16), phường P, thành phố TN. Chị T xác định mâu thuẫn vợ chồng đã ở mức trầm trọng nên đề nghị Tòa án cho được ly hôn với anh Tuấn A. Về con chung:

Chị T khai có hai con chung là Nguyễn Hoài A1, sinh ngày 15/10/2011 và Nguyễn Hoài A2, sinh ngày 24/02/2014. Khi ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi hai cháu A1 và A2 cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Chị không đề nghị anh Tuấn A cấp dưỡng nuôi con chung. Tài sản - công nợ chung: Không có. Không đề nghị giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Tuấn A trong biên bản ghi ý kiến ngày 08/2/2022 của Trại giam Phú Sơn 4 trình bày: Anh và chị Nguyễn Thanh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Trong quá trình chung sống đến năm 2013 thì xảy ra mâu thuẫn và không thể hòa hợp nguyên nhân do anh làm ăn thua lỗ nên phải đi cải tạo kể từ khi bị bắt thì tình cảm anh chị đã không còn hòa hợp hàn gắn được. Nay chị T có nguyện vọng ly hôn, anh đồng ý. Về con chung: Do hiện nay anh đang phải chấp hành án nên anh đồng ý để chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc hai con chung là Nguyễn Hoài A1, sinh ngày 15/10/2011 và Nguyễn Hoài A2, sinh ngày 24/02/2014 cho đến khi hai cháu đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con khi nào ra trại anh sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng hai con . Về tài sản chung, công nợ chung: Không có. Không đề nghị giải quyết Sau khi khi thụ lý vụ án, Toà án đã tiến hành triệu tập, lấy lời khai của chị T. Do tình hình dịch bệnh COVID 19 đang diễn biến hết sức phức tạp, nên Tòa án đã có công văn số 12/2022/CV-TA ngày 27/01/2022 đề nghị trại giam PS4 lấy lời khai và tống đạt các văn bản tố tụng cho anh Tuấn A. Do anh Tuấn A đang chấp hành án và có đơn xin hòa giải, xét xử vắng mặt nên không thể tiến hành hòa giải. Vì vậy, vụ án phải được đưa ra xét xử ngày hôm nay.

Trong phần tranh tụng, chị T giữ nguyên quan điểm khởi kiện là đề nghị được ly hôn với anh Tuấn A; Con chung: chị có nguyện vọng được nuôi cháu Nguyễn Hoài A1 và Nguyễn Hoài A2 cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Chị không đề nghị anh Tuấn A cấp dưỡng nuôi con chung. Tài sản chung, công nợ chung không có, không yêu cầu giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào Điều 21; Điều 262 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015: Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định về thẩm quyền của mình theo Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự; Tuân thủ đúng quy định về trình tự, tố tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71 BLTTDS.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thanh T, cho chị T được ly hôn với anh Tuấn A. Về con chung: Giao cháu hai con chung là Nguyễn Hoài A1, sinh ngày 15/10/2011 và Nguyễn Hoài A2, sinh ngày 24/02/2014 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không giải quyết do chị T không có yêu cầu. Tài sản chung, công nợ chung không có, không đề nghị giải quyết. Buộc chị T chịu án phí dân sự sở thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà hội đồng xét xử nhận định:

1. Về tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Tuấn A có hộ khẩu thường trú tại thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Căn cứ Điều 28; Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên là đúng quy định. Anh Tuấn A có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ Khoản 1 Điều 227 BLTTDS, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn. Các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp cho Tòa án đều đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

2. Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thanh T và anh Nguyễn Tuấn A là hợp pháp. Quá trình chung sống anh chị phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng không hiểu nhau, không tin tưởng dẫn đến cãi vã bên cạnh đó việc anh Tuấn A đang phải đi chấp hành án tại trại giam PS4 cũng làm tình cảm vợ chồng bị ảnh hưởng. Anh Tuấn A trong biên bản trình bày ý kiến cũng thừa nhận anh đang chấp hành án, vợ chồng không thể hòa hợp dẫn đến mâu thuẫn, anh đồng ý ly hôn với Chị T.

Như vậy, có thể khẳng định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh Tuấn A đã ở mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị T đề nghị ly hôn là có căn cứ theo quy định tại Điều 56 luật hôn nhân gia đình nên chấp nhận.

3. Về con chung: Chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung hai con chung là Nguyễn Hoài A1, sinh ngày 15/10/2011 và Nguyễn Hoài A2, sinh ngày 24/02/2014 và không đề nghị anh Tuấn A cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Tuấn A đồng ý với yêu cầu của chị T. Hội đồng xét xử xét thấy đây là sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, bên cạnh đó cháu Hoài A1, Hoài A2 cũng có đơn trình bày nguyện vọng được ở với mẹ, anh Tuấn A lại đang phải chấp hành án. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của Chị T giao con chung là Nguyễn Hoài A1 và Nguyễn Hoài A2 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi hai cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Việc cấp dưỡng n uôi con chung không giải quyết do chị T không có yêu cầu.

4. Về tài sản chung, công nợ chung: Không giải quyết do đương sự không yêu cầu 5. Về án phí: Chị Nguyễn Thanh T phải nộp án dân sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Xét ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về nội dung vụ án là có căn cứ chấp nhận.

Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28; Điều 35, Điều 39; Điều 147; khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng Điều 56; Điều 81; 82; 83 Luật hôn nhân gia đình năm 2014; Luật phí và lệ phí năm 2016; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thanh T. Cho chị Nguyễn Thanh T được ly hôn với anh Nguyễn Tuấn A.

2. Về con chung: Giao hai con chung là Nguyễn Hoài A1, sinh ngày 15/10/2011 và Nguyễn Hoài A2, sinh ngày 24/02/2014 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi hai cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác.

Việc cấp dưỡng nuôi con chung không giải quyết do Chị T không có yêu cầu. Anh Tuấn A được quyền đi lại thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: Không có. Không yêu cầu Tòa án không giải quyết.

4. Án phí: Chị Nguyễn Thanh T phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm sung quỹ nhà nước được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí sang theo biên lai thu số 000931 ngày 26 tháng 01 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 29/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:29/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về