Bản án về ly hôn số 17/2022/HNGĐ-ST

 TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 17/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/03/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 18-3-2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện H, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 296/2021/TLST-HNGĐ ngày 26-11- 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 03-3-2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Lan H, sinh năm 1990.

Bị đơn: Anh Tô Quốc B, sinh năm 1983.

Đều trú tại: Thôn M, xã V, huyện H, tỉnh Thái Bình.

(Chị H, anh B đều có đơn xin xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các bản tự khai nguyên đơn chị Nguyễn Thị Lan H trình bày: Chị kết hôn với anh B là do hai bên tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại trụ sở UBND thị trấn Nông trường M, huyện M, tỉnh Sơn La vào ngày 06-01-2009. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận đến tháng 02-2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng tính tình không hợp nhau, vợ chồng không tôn trọng nhau, mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình và chính quyền địa phương hòa giải nhưng không thành. Vợ chồng mâu thuẫn căng thẳng và sống ly thân từ tháng 10-2021 đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh B. Về nuôi con chung: Chị và anh B có 04 con chung là Tô Đại Ph, sinh ngày 11-7-2010, Tô Tâm Nh, sinh ngày 25-9-2014, Tô Tiến Tr, sinh ngày 13-3-2017 và Tô Quang Kh, sinh ngày 30-10-2020. Khi ly hôn chị xin nuôi cháu Tr và cháu Kh, để anh B nuôi cháu Ph và cháu Nh, đôi bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Về chia tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại các bản tự khai bị đơn anh Tô Quốc B trình bày: Về điều kiện, thời gian, địa điểm kết hôn như chị H trình bày là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hòa thuận đến tháng 01- 2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng tính tình không hợp nhau. Nay chị H xin ly hôn anh, anh xác định vợ chồng vẫn còn tình cảm, anh đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, nếu chị H cương quyết xin ly hôn thì anh cũng nhất trí. Về nuôi con chung: Anh và chị H có 04 con chung là Tô Đại Ph, sinh ngày 11-7-2010, Tô Tâm Nh, sinh ngày 25-9-2014, Tô Tiến Tr, sinh ngày 13-3-2017 và Tô Quang Kh, sinh ngày 30-10-2020. Nếu ly hôn anh xin nuôi cháu Ph và cháu Nh, để chị H nuôi cháu Tr và cháu Kh, đôi bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Về chia tài sản chung: Không có, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, trước khi Hội đồng xét xử nghị án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tiến hành thụ lý, thu thập chứng cứ và xét xử vụ án theo đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định, người tham gia tố tụng đã chấp hành cơ bản đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử, xử cho ly hôn giữa chị H và anh B. Về nuôi con chung: Giao cho chị H trực tiếp nuôi cháu Tô Tiến Tr, sinh ngày 13-3- 2017 và cháu Tô Quang Kh, sinh ngày 30-10-2020; giao cho anh B trực tiếp nuôi cháu Tô Đại Ph, sinh ngày 11-7-2010 và cháu Tô Tâm Nh, sinh ngày 25-9-2014, chị H anh B không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Về chia tài sản chung: Chị H và anh B không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa. Tòa án nhân dân huyện H nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị H khởi kiện yêu cầu được ly hôn anh B, trú tại Thôn M, xã V, huyện H. Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện H, tỉnh Thái Bình. Chị H, anh B đều có đơn xin vắng mặt tại phiên hòa giải và phiên tòa, vì vậy Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án được và Quyết định mở phiên tòa xét xử vắng mặt chị H, anh B theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Chị H, anh B kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Nông trường M, huyện M, tỉnh Sơn La vào ngày 06-01-2009, đây là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hòa thuận đến tháng 01- 2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng tính tình không hợp nhau. Vợ chồng mâu thuẫn căng thẳng và sống ly thân từ tháng 10-2021 đến nay. Chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh B; anh B xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, anh xin đoàn tụ, nếu chị H cương quyết xin ly hôn thì anh cũng nhất trí. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H, anh B đã căng thẳng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, vì vậy cần xử cho ly hôn giữa chị H và anh B là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về nuôi con chung: Chị H và anh B có 04 con chung là Tô Đại Ph, sinh ngày 11-7-2010, Tô Tâm Nh, sinh ngày 25-9-2014, Tô Tiến Tr, sinh ngày 13-3- 2017 và Tô Quang Kh, sinh ngày 30-10-2020. Chị H và anh B đều đề nghị Tòa án giải quyết để chị H nuôi cháu Tr và cháu Kh, anh B nuôi cháu Ph và cháu Nh, đôi bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Xét thấy, đây là sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự, phù hợp với quy định của pháp luật, cần chấp nhận.

[4] Về chia tài sản chung: Chị H, anh B không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị H phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147 và khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Lan H và anh Tô Quốc B.

2. Về nuôi con chung: Giao cho chị H trực tiếp nuôi cháu Tô Tiến Tr, sinh ngày 13-3-2017 và cháu Tô Quang Kh, sinh ngày 30-10-2020; giao cho anh B trực tiếp nuôi cháu Tô Đại Ph, sinh ngày 11-7-2010 và cháu Tô Tâm Nh, sinh ngày 25-9-2014. Chị H, anh B không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Chị H, anh B có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về chia tài sản chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Lan H phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị H đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0003492 ngày 26-11-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Thái Bình (chị H đã nộp đủ tiền án phí).

5. Chị H, anh B vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

162
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 17/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:17/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về