Bản án về ly hôn số 13/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 13/2022/HNGĐ–ST NGÀY 21/03/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 21 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 184/2021/TLST – HNGĐ ngày 24 tháng 11 năm 2021 về việc “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 02 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trương Thị N, sinh năm 1967; địa chỉ: Ấp x, thị trấn P, huyện P, tỉnh Sóc Trăng (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Huỳnh Văn H, sinh năm 1973; địa chỉ: Ấp A, xã K, huyện P, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Trong đơn khởi kiện lập ngày 22/11/2021 nguyên đơn bà Trương Thị N trình bày: Bà N và ông Huỳnh Văn H tự nguyện kết hôn với nhau và được Ủy ban nhân dân xã K, huyện P, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 21/5/1992. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian, đến năm 1999 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng ý kiến trong cuộc sống nên cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc và sống ly thân từ năm 1999 cho đến năm 2021 thì vợ chồng hàng gắn nhưng cuộc sống không hạnh phúc và sống ly thân từ năm 2021 cho đến nay. Sau khi sống ly thân thì bà N và bà H có gặp nhau nhưng không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng. Trong thời gian chung sống, bà N và bà H có 01 người con chung là Huỳnh Thị Bích T, sinh năm 1993 hiện nay đã thành niên. Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Bà Trương Thị N yêu cầu ly hôn với ông Huỳnh Văn H; con chung đã thành niên nên bà N không yêu cầu gì; về tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu gì.

- Đối với bị đơn ông Huỳnh Văn H: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho bà H nhưng bà H không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ bà H 02 lần để tham gia tố tụng tại phiên hòa giải nhưng bà H vẫn vắng mặt nên Tòa án đã lập biên bản về việc không tiến hành hòa giải được. Bị đơn ông Huỳnh Văn H đã được triệu tập hợp lệ để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

- Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa trình bày ý kiến: Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, đối với bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra các chứng cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa xét thấy tình trạng của vợ chồng bà Trương Thị N và ông Huỳnh Văn H đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Trương Thị N; con chung đã thành niên nên không đặt ra xem xét; về tài sản chung và nợ chung không có nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bị đơn ông Huỳnh Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và khoản 3 Điều 235 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bà H.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, bà Trương Thị N và ông Huỳnh Văn H tự nguyện kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã K, huyện P, tỉnh Sóc Trăng cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 21/5/1992 nên quan hệ hôn nhân giữa bà N và bà H là hợp pháp, được pháp luật công nhận. Căn cứ vào khoản 1 Điều 85 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, bà N có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Xét lý do yêu cầu ly hôn của bà N, Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình giải quyết vụ án, bà N xác định nguyên nhân do bất đồng ý kiến trong cuộc sống nên cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc và sau khi sống ly thân thì bà N và bà H có gặp nhau nhưng không thể hàn gắn tình cảm. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tổ chức phiên hòa giải để động viên vợ chồng bà N và bà H đoàn tụ với nhau nhưng bà H vẫn vắng mặt và bà N vẫn kiên quyết ly hôn với bà H vì tình cảm vợ chồng không còn. Như vậy, tình trạng của vợ chồng bà N và bà H đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, xét việc bà N xin ly hôn với bà H là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 89 và Điều 91 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà N được ly hôn với bà H.

[3] Về con chung: Bà Trương Thị N xác định trong thời gian chung sống, bà N và ông Huỳnh Văn H có 01 người con chung là Huỳnh Thị Bích T, sinh năm 1993 hiện nay đã thành niên, bà N không yêu cầu gì nên không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Trương Thị N xác định trong thời gian chung sống bà N và bà H không có tài sản chung và không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Từ những phân tích nêu trên, xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bà Trương Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Ông Huỳnh Văn H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và khoản 3 Điều 235 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 85, khoản 1 Điều 89, Điều 91 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trương Thị N.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trương Thị N được ly hôn với ông Huỳnh Văn H.

1.2. Về con chung: Bà Trương Thị N xác định trong thời gian chung sống, bà N và và ông Huỳnh Văn H có 01 người con chung là Huỳnh Thị Bích T, sinh năm 1993 hiện nay đã thành niên, bà N không yêu cầu gì nên không đặt ra xem xét.

1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Trương Thị N xác định không có tài sản chung và không có nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Trương Thị N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003257 ngày 22/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng; như vậy, bà Trương Thị N đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm. Ông Huỳnh Văn H không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

519
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 13/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:13/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về