Bản án về ly hôn, nuôi con số 254/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ T, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 254/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện Phú T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 37/2022/TLST-HNGĐ ngày 14/02/2022 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 102/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 10 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Bùi Công T, sinh năm 1994.

2. Bị đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1993.

Cùng trú tại: Tổ 2, ấp Hòa L, xã Hòa L, huyện Phú T, tỉnh An Giang. (Các đương sự vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn ngày 08/02/2022 nguyên đơn Ông Bùi Công T trình bày:

Ông T và bà H sau thời gian tìm hiểu và được cha mẹ hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới theo nghi thức truyền thống năm 2016, vợ chồng có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa L, huyện Phú T, tỉnh An Giang. Giấy chứng nhận kết hôn số 10, ngày 15 tháng 01 năm 2016, Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc tại nhà chồng được vài tháng thì phát sinh mâu thuẫn do H mâu thuẫn với cha mẹ chồng, vợ chồng vì thế hay cải nhau, tình cảm dần phai nhạt. Năm 2019 bà H bỏ nhà đi. Vợ chồng ly thân, trong thời gian ly thân H có tới lui thăm con nhưng không có ý hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay tình cảm đã không còn ông T yêu cầu được ly hôn với bà Ngọc H.

Về con chung: Bà H và ông T có 01 người con chung tên Bùi Công L, sinh ngày 25/04/2016 con chung hiện đang sống với ông T, khi ly hôn ông T yêu cầu được nuôi con chung đến trưởng thành, không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không.

Về nợ chung: Không. Ngày 01/7/2022 Ông Bùi Công T có đơn xin xét xử vắng mặt Bị đơn Bà Nguyễn Thị Ngọc H vắng mặt từ khi Tòa án thụ lý nên không có lời trình bày.

Tòa án tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân được ông Bùi Công V cha ruột ông T cho biết: Hôn nhân của T là do tự tìm hiểu, tổ chức lễ cưới năm 2016 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa L. Sau khi cưới vợ cho con thì vợ chồng T sống chung nhà với ông Vẹn, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng do H làm dâu trong nhà nhưng thường xuyên cải nhau với vợ chồng ông, ông dạy gì H cũng nghe, T và H có ngồi nói chuyện với nhau nhưng không tìm được tiếng nói chung. Năm 2019 H bỏ nhà đi, thỉnh thoảng 3, 4 tháng mới về thăm con. Con chung của T, H tên Bùi Công L hiện đang sống với tôi, khi ly hôn tùy Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật, tài sản chung, nợ chung tôi được biết là không có.

Ông Lê Phi An – Phó Trưởng Công an xã Hòa L cho biết: Bà Nguyễn Thị Ngọc H, sinh năm 1993 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp Hòa L, xã Hòa L, huyện Phú T, tỉnh An Giang, bà H hiện tại không có mặt tại nơi cư trú, bà H đi khoản 3 – 4 tháng thì về thăm con một lần, nguyên nhân mâu thuẫn của bà H, ông T như thế nào thì địa phương không rõ, chỉ không thấy bà H ở nhà ông T khoản hơn hai năm nay.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên phát biểu về quá trình tiến hành tố tụng và đề xuất như sau:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật.

- Về việc giải quyết vụ án: Hôn nhân của ông T và bà H được xác lập trên cở sở tự tìm hiểu, hôn nhân có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ; quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống và ly thân, từ khi ly thân đến nay không hàn gắn được. Nên yêu cầu ly hôn của ông T là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Về con chung: Hiện tại đang sống với ông T, ông T không yêu cầu bà H cấp dưỡng. Đề nghị HĐXX giao con chung cho ông T tiếp tục nuôi dưỡng.

Về tài sản chung, Nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Về quan hệ tranh chấp: Ông T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với bà H nên quan hệ tranh chấp của vụ án là “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn Ông Bùi Công T có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn Bà Nguyễn Thị Ngọc H vắng mặt tại phiên Tòa lần thứ 2, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà H, ông T là phù hợp với quy định Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Hiện tại Bà Nguyễn Thị Ngọc H có nơi cư trú tại ấp Hòa L, xã Hòa L, huyện Phú T, tỉnh An Giang nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Phú T, tỉnh An Giang.

[2.] Về nội dung:

Hôn nhân của ông T và bà H được xác lập năm 2016 trên cơ sở tự tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn nên hôn nhân của ông bà là hôn nhân hợp pháp nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng.

Xét về yêu cầu ly hôn, thấy rằng: Trong thời gian chung sống vợ chồng ông T, bà H có nhiều mâu thuẫn nên thường xuyên cải vã, mâu thuẫn kéo dài, đời sống tình cảm ngày càng trầm trọng. Năm 2019 bà H bỏ nhà đi, vợ chồng ly thân, trong thời gian ly thân bà H không tới lui thăm hỏi hay có ý hàn gắn tình cảm vợ chồng, đều này phù hợp với lời trình bày của ông Bùi Công V và ông Lê Phi An.

Theo quy định tại Điều 19, Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẽ, thực hiện các công việc trong gia đình; Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau….”. Thế nhưng vợ chồng ông T, bà H không còn chung sống khoảng hai năm nay là khoảng thời gian dài. Điều này chứng tỏ vợ chồng không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cũng như không thể chia sẻ công việc trong gia đình với nhau được nữa, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử thống nhất cho ông T được ly hôn bà H.

[3] Về con chung: Ông T trình bày vợ chồng có 01 người con chung tên Bùi Công L, sinh ngày 25/4/2016 con chung chưa thành niên. Xét thấy từ khi ly thân đến nay con chung đang sống với ông T, có cuộc sống ổn định, nên tiếp tục giao cháu Lực cho ông T nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp và thỏa mãn Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Ông T không yêu cầu cấp dưỡng cho con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không ai được cản trở.

Ông T trình bày tài sản chung, nợ chung không có nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nhưng sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân thì phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

[4] Về án phí: Ông T phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 227, Điều 228; khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

-Điều 19, Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

-Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho Ông Bùi Công T được ly hôn với Bà Nguyễn Thị Ngọc H.

Giấy chứng nhận kết hôn số 10, ngày 15/01/2016 của Ủy ban nhân dân xã Hòa L, huyện Phú T, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

Về con chung: Ông Bùi Công T được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung tên Bùi Công L, sinh ngày 25/04/2016. Con chung hiện đang sống với ông T. Bà Nguyễn Thị Ngọc H không phải cấp dưỡng cho con.

Việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chưa thành niên không cố định Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung: Không.

Nợ phải thu, phải trả chung của vợ chồng: Không.

Về án phí: Ông Bùi Công T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0004307 ngày 14/02/2022 của Chi cục Thi hành án huyện Phú T, tỉnh An Giang. Ông T không phải nộp thêm án phí.

Bà Nguyễn Thị Ngọc H không phải chịu án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà H, ông T vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo đối với bản án là 15 ngày tính từ ngày ông, bà nhận được bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con số 254/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:254/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về