Bản án về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn số 26/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN - TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 26/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/07/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 25 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 94/2022/TLST - HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2022 về việc Ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Q, sinh năm 1988.

HKTT: K, xã T, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ.

2. Bị đơn: Anh Đinh Trọng V, sinh năm 1980.

HKTT: Xóm Q, xã C, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ.

(Chị Hoàng Thị Q có đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 12/7/2022, tại biên bản lấy lời khai anh Đinh Trọng V đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 04/5/2022, bản tự khai ngày 25/5/2022, biên bản phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ nguyên đơn chị Hoàng Thị Q trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Q kết hôn với anh Đinh Trọng V năm 2010, hai bên có được tự do tìm hiểu tự nguyện và làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc cùng với mẹ đẻ anh V tại xã C, huyện Thanh Sơn. Năm 2016 do kinh tế gia đình khó khăn nên vợ chồng đã bàn với nhau để Chị Q đi xuất khẩu lao động, thời gian đầu khi Chị Q đi xuất khẩu lao động vợ chồng không có chuyện gì, vẫn liên lạc hỏi han nhau thường xuyên, tuy nhiên sau đó được khoảng hơn một năm thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chính là do vợ chồng không cùng quan điểm trong cách sống, vợ chồng không tin tưởng vào tình cảm của nhau, anh V có ghen tuông chuyện tình cảm khi chị đi xuất khẩu lao động, từ đó vợ chồng có lời qua tiếng lại dẫn đến cãi nhau, xúc phạm nhau trên điện thoại. Mặt khác anh V ở nhà không chịu tu chí làm ăn, hay uống rượu và mỗi khi như thế là gọi điện chửi mắng, trách móc Chị Q, bản thân Chị Q với gia đình nhà chồng cũng không được hòa thuận, êm ấm, luôn có khoảng cách với nhau. Từ khi mâu thuẫn vợ chồng xẩy ra Chị Q cũng không liên lạc với anh V và gia đình nhà chồng nữa. Đến đầu năm 2022 Chị Q về nước nhưng chị không về nhà chung sống với anh V nữa, chị về nhà bố mẹ đẻ tại xã T, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Bản thân anh V có lên nhà nói chuyện, đón chị về chung sống cùng nhau nhưng chị dứt khoát không về, vì vợ chồng sống không có hạnh phúc. Khi mâu thuẫn vợ chồng xẩy ra thì bố mẹ hai bên gia đình có biết, có khuyên bảo, nhưng mâu thuẫn vợ chồng vẫn không được cải thiện. Hiện tại vợ chồng sống ly thân mỗi người một nơi, không ai còn quan tâm đến nhau. Nay Chị Q xác định tình cảm với anh V không còn, hôn nhân không đem lại hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Vợ chồng chị Hoàng Thị Q có 01 con chung là cháu Đinh Phương N, sinh ngày 15/3/2013, con chung đang ở với anh V và bà nội từ khi chị đi xuất khẩu lao động năm 2016 đến nay. Ly hôn Chị Q đồng ý để cho anh V được trực tiếp nuôi con chung đến khi cháu thành niên. Chị đi làm ăn nên cũng ít có thời gian về thăm con, chơi với con, con chung chủ yếu anh V và bà nội chăm sóc, nuôi dưỡng, ăn học, cháu đang có hộ khẩu cùng với bố tại xóm Q, xã C, huyện Thanh Sơn.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp và tư trang riêng: Chị Hoàng Thị Q trình bày vợ chồng không có nên ly hôn chị không có đề nghị gì.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 24/6/2022, bị đơn là anh Đinh Trọng V trình bày: Năm 2010 anh V kết hôn với chị Hoàng Thị Q, hai bên được tự do tìm hiểu tự nguyện và làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng sinh sống cùng với mẹ đẻ anh V tại xóm Q, xã C, huyện Thanh Sơn. Do kinh tế gia đình khó khăn nên vợ chồng đã bàn bạc với nhau để Chị Q đi xuất khẩu lao động từ năm 2016, đến khoảng đầu tháng 5 năm 2022 Chị Q mới về nước. Tuy nhiên, khi Chị Q về nước thì chị không về nhà anh, không chung sống với bố con anh nữa, mặc dù Chị Q đi xuất khẩu lao động gần sáu năm xa nhau nhưng khi về nước chị cũng không hỏi thăm bố con anh, mẹ đẻ anh câu nào. Anh V có tìm gặp và hỏi Chị Q lý do gì chị không về chung sống với anh nữa thì Chị Q nói là không về mà không nói rõ lý do, anh V có lên nhà Chị Q ở xã T, huyện Tân Sơn để nói chuyện với mẹ vợ, khuyên bảo, đón vợ về để cùng chung sống nhưng Chị Q kiên quyết không về, vợ chồng ít nói chuyện với nhau, có chăng chỉ nói qua điện thoại khi chị gọi điện về hỏi thăm con. Hiện tại vợ chồng không ăn ở cùng với nhau, mỗi người một nơi không ai còn quan tâm, hỏi han gì đến nhau. Nay Chị Q có đơn xin ly hôn quan điểm anh V mong muốn Chị Q suy nghĩ lại vì con cái mà về chung sống với nhau, nếu Chị Q vẫn một mực cương quyết ly hôn thì anh V đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Anh Đinh Trọng V xác định vợ chồng có một con chung là cháu Đinh Phương N, sinh ngày 15/3/2013, con chung ở với anh V và mẹ đẻ anh từ khi Chị Q đi xuất khẩu lao động năm 2016 đến nay. Nếu ly hôn quan điểm anh V xin được nuôi con chung đến khi thành niên, anh tự nguyện không yêu cầu Chị Q cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp và tư trang riêng: Anh Đinh Trọng V xác định vợ chồng không có nên nếu ly hôn anh không có yêu cầu gì.

Anh V còn trình bày: Do điều kiện công việc bận nên anh không xuống Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, tham gia phiên hòa giải được, anh đề nghị không mở phiên hòa giải, anh không yêu cầu phải hòa giải vụ án ly hôn, anh V đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh theo quy định của pháp luật. Anh V có nhận được thông báo thụ lý vụ án, các văn bản tố tụng khác của Tòa án nhưng anh không ký vào biên bản giao nhận. Anh V đề nghị Tòa án không báo gọi anh nữa.

Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có vi phạm gì. Các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, đơn ghi ngày 12/7/2022. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án đã giao văn bản tố tụng hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, tại biên bản lấy lời khai anh V đề nghị giải quyết vắng mặt anh nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng theo quy định của pháp luật.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Hoàng Thị Q, xử cho Chị Q được ly hôn anh Đinh Trọng V. Về con chung: Giao con chung là cháu Đinh Phương N, sinh ngày 15/3/2013 cho anh Đinh Trọng V được trực tiếp nuôi dưỡng đến khi thành niên, anh V tự nguyện không yêu cầu Chị Q cấp dưỡng nuôi con chung. Các vấn đề khác đương sự không yêu cầu nên không xem xét. Về án phí: Chị Hoàng Thị Q phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngày 04/5/2022 chị Hoàng Thị Q nộp đơn khởi kiện về việc ly hôn, giải quyết về nuôi con chung đối với anh Đinh Trọng V, đây là tranh chấp Hôn nhân gia đình được Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về sự vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn chị Hoàng Thị Q có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 12/7/2022. Anh Đinh Trọng V có mặt tại gia đình, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh V đến Tòa án làm việc nhưng anh V không có mặt, Tòa án kết hợp với khu hành chính xóm Q, xã C, huyện Thanh Sơn đã đến gia đình để làm việc, lấy lời khai, tống đạt các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, tuy nhiên phía anh V không hợp tác, không nhận các văn bản tố tụng là không thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự, anh V chỉ đồng ý để Tòa án lập biên bản lấy lời khai, tại biên bản lấy lời khai ngày 24/6/2022 anh V đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt (Tòa án hướng dẫn anh V làm đơn đề nghị xét xử vắng mặt nhưng anh không làm), anh từ chối không đến Tòa án để làm việc, đến khi mở phiên tòa anh V vẫn vắng mặt không có lý do, Chị Q có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải ngày 25/5/2022, nên đây là vụ án không thể tiến hành hòa giải được. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt Chị Q, anh V là phù hợp quy định tại Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị Q và anh Đinh Trọng V đăng ký kết hôn ngày 30/8/2010 tại UBND xã T, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng ở chung với mẹ đẻ anh V là bà Hoàng Thị Thịnh tại xóm Q, xã C, huyện Thanh Sơn, sau đó kinh tế gia đình khó khăn Chị Q đi xuất khẩu lao động từ năm 2016, đến đầu năm 2022 Chị Q về nước, khi trở về thì Chị Q cũng không chung sống cùng với anh V nữa. Trong cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, nguyên nhân chính là do hai vợ chồng bất đồng quan điểm, không cùng nhau có trách nhiệm với gia đình, vợ chồng không tin tưởng nhau và thường xuyên xẩy ra cãi nhau. Bản thân anh V thì mải chơi, không tập trung làm ăn kinh tế gia đình. Kết quả xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ về tình trạng hôn nhân tại địa phương, lấy lời khai của người thân gia đình anh V cũng xác định vợ chồng Chị Q và anh V có mâu thuẫn, thực tế hôn nhân của anh chị đã không hạnh phúc với nhau một thời gian dài. Về phía anh V đã được Tòa án triệu tập, giải thích nhiều lần đến Tòa án để tạo điều kiện hòa giải đoàn tụ cho hai bên nhưng anh V vẫn vắng mặt và cũng không có mặt tại phiên tòa, điều đó thể hiện anh V không còn tha thiết đến hạnh phúc gia đình, không có thiện chí hòa giải đoàn tụ, anh cũng có quan điểm đề nghị Tòa án không mở phiên hòa giải. Hội đồng xét xử thấy rằng: Tình trạng hôn nhân giữa Chị Q và anh V đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, giữa Chị Q và anh V một thời gian dài không thực hiện quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với nhau. Việc Chị Q xin ly hôn với anh V là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận là phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Chị Hoàng Thị Q và anh Đinh Trọng V xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Đinh Phương N, sinh ngày 15/3/2013. Hiện nay con chung đang ở với anh V và mẹ đẻ anh tại xóm Q, xã C, huyện Thanh Sơn. Khi ly hôn quan điểm Chị Q đồng ý để anh V được nuôi con chung đến khi thành niên, vì Chị Q đi làm công nhân, không có nhà ở ổn định, không đảm bảo việc nuôi con. Tại biên bản lấy lời khai ngày 24/6/2022 quan điểm anh V đề nghị được nuôi con chung đến khi thành niên, anh không yêu cầu cấp dưỡng. Hội đồng xét xử thấy rằng: Từ khi Chị Q và anh V sống ly thân năm 2016, con chung vẫn ở với anh V, được anh và mẹ đẻ anh chăm sóc, nuôi dưỡng, học hành đầy đủ. Nguyện vọng của cháu Nguyên xin được ở với bố. Vì vậy để đảm bảo quyền lợi cho con chung, cháu có điều kiện tốt nhất để học hành và phát triển toàn diện, tránh việc ảnh hưởng đến tâm lý cần giao cho anh V được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Đinh Phương N đến khi thành niên là phù hợp với thực tế và phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân gia đình. Anh V tự nguyện không yêu cầu Chị Q cấp dưỡng nuôi con chung nên không buộc Chị Q cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp và tư trang riêng: Chị Hoàng Thị Q và anh Đinh Trọng V đều xác định vợ chồng không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp nên cần chấp nhận.

[6] Về án phí: Chị Hoàng Thị Q phải nộp tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Hoàng Thị Q đối với anh Đinh Trọng V. Xử cho chị Hoàng Thị Q được ly hôn anh Đinh Trọng V.

2. Về con chung: Giao con chung của anh chị là cháu Đinh Phương N, sinh ngày 15/3/2013 cho anh Đinh Trọng V được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung thành niên. Anh V tự nguyện không yêu cầu chị Hoàng Thị Q phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Sau khi ly hôn chị Hoàng Thị Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Hoàng Thị Q phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Xác nhận Chị Q đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu số AA/2020/0006796 ngày 06/5/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Nay chuyển thành án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND xã nơi các đương sự thường trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

76
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung khi ly hôn số 26/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:26/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về