Bản án về ly hôn, nuôi con chung giữa chị D- anh E số 40/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 40/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG GIỮA CHỊ D- ANH E

Ngày 08 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 75/2022/TLST–HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2022 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1983. Địa chỉ: Thôn T, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình. (chị D có đơn xin xét xử vắng mặt) -Ngưởi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị Dịu:

Bà Hoàng Thị M– Là Luật sư của Công ty Luật TNHH Th thuộc đoàn Luật sư tỉnh Vĩnh Phúc. (có mặt) -Bị đơn: Anh Phạm Ngọc E, sinh năm 1980 Địa chỉ: Thôn H, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình.(có mặt) (Tại phiên tòa anh E tự ý bỏ về)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện được bổ sung bằng biên bản ghi lời khai nguyên đơn là chị Nguyễn Thị D trình bày: Chị và anh Phạm Ngọc E tự do, tự nguyện tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện Q vào năm 2004. Sau khi kết hôn cả hai sinh sống tại xã A, năm 2014 chị D đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan. Trong quá trình chị D sinh sống tại Đài Loan vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên xích mích mỗi khi trao đổi điện thoại. Từ năm 2019 chị D trở về nước đã sống ly thân, đoạn tuyệt tình cảm với anh E, không gặp gỡ hỏi han gì lẫn nhau. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị D đề nghị xin được ly hôn anh E.

Về con chung: Chị D khai vợ chồng có 02 con chung là Phạm Văn T1, sinh ngày 10/02/2005 và Phạm Tiến Tr, sinh ngày 13/12/2006. Con chung được anh E trực tiếp nuôi dưỡng kể từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Chị D đề nghị tôn trọng ý kiến con chung, nếu 02 con chung có nguyện vọng ở với anh E thì đề nghị Tòa án giao cho anh E tiếp tục được nuôi dưỡng, chị nhận cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Chị D khai vợ chồng không có tài sản chung; vợ chồng không có nợ chung và không ai nợ vợ chồng nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

-Đối với bị đơn là anh Phạm Ngọc E trình bày: Anh xác nhận lời khai của chị D về thời gian, điều kiện kết hôn, thời gian chung sống của vợ chồng. Về nguyên nhân mâu thuẫn anh cho rằng trong thời gian chị D ở Đài Loan giữa anh và chị D có xảy ra mâu thuẫn nhỏ do bất đồng quan điểm khi trao đổi điện thoại, vợ chồng không có mâu thuẫn lớn. Từ năm 2019 sau khi chị D trở về cho đến nay, chị D đã sống ly thân không về gia đình anh sinh sống. Nay anh xác nhận tình cảm vợ chồng vẫn còn, anh đề nghị xin được đoàn tụ vợ chồng.

Về con chung: Anh E xác nhận vợ chồng có 02 con chung như chị D đã khai. Nếu ly hôn xảy ra anh đề nghị tôn trọng ý kiến con chung, nếu con chung có nguyện vọng ở với anh thì anh đề nghị được nuôi dưỡng 02 con chung. Tại biên bản ghi lời khai và phiên hòa giải lần 1 anh E không yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con chung, tại phiên hòa giải lần 2 anh E yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con chung, mức cấp dưỡng anh sẽ đưa ra sau.

Về tài sản chung: Anh E xác nhận vợ chồng không có tài sản chung; vợ chồng không có nợ chung và không ai nợ vợ chồng nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ni bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị D ý kiến: Kiến nghị Hội đồng xét xử xem xét mối quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh E để giải quyết nguyện vọng của chị D theo quy định của pháp luật. Thực tế cuộc sống vợ chồng giữa chị D và anh E đã mâu thuẫn trầm trọng, hai bên đã sống ly thân thời gian dài, chị D đã đoạn tuyệt tình cảm không gặp gỡ quan tâm gì đến cuộc sống vợ chồng. Về con chung kiến nghị Hội đồng xét xử xem xét nguyện vọng của 02 con chung và ý kiến các bên về giao và nuôi con chung, mức cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Hồ sơ vụ án từ giai đoạn thụ lý vụ án đến khi xét xử, Thẩm phán thụ lý giải quyết vụ án đã lập và thu thập đầy đủ các tài liệu và chứng cứ, tuân thủ đúng trình tự luật định. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ theo đúng trình tự pháp luật quy định. Đối với nguyên đơn và bị đơn trong giai đoạn tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. tại phiên tòa chị D có đơn xin xét xử vắng mặt, đối với anh E tự ý bỏ về là chấp hành không đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTV QH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị D được ly hôn anh E. Về con chung: Xử giao 02 con chung Phạm Văn T1, sinh ngày 10/02/2005 và Phạm Tiến Tr, sinh ngày 13/12/2006 cho anh E trực tiếp nuôi dưỡng, buộc chị D phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung hàng tháng theo quy định của pháp luật. Về tài sản chung: Chị D, anh E không yêu cầu Tòa án giải quyết vì vậy không đặt ra giải quyết. Chị D phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả thẩm vấn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng: Bị đơn có nơi cư trú tại thôn H, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình theo quy định tại Điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Nguyên đơn có đơn gửi Tòa án xin được xét xử vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn đã được triệu tập hợp lệ và có mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên tại phiên tòa bị đơn có ý kiến chỉ tham gia phiên tòa khi có mặt chị D và đã tự ý bỏ về không có lý do chính đáng, bị đơn đã tự tước đi quyền tham gia tố tụng tại phiên tòa, vì vậy Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[3]Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị D và anh Phạm Ngọc E được xác lập trên cơ sở tự do, tự nguyện tìm hiểu kết hôn có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện Q vào ngày 29/7/2004 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn chị D và anh E đều sinh sống tại xã A và lao động tự do. Từ năm 2014 đến năm 2019 chị D đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan, trong thời gian chị D ở Đài Loan giữa chị Dvà anh E đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là bất đồng quan điểm sống. Tại các phiên hòa giải hai bên đều xác nhận vợ chồng có xảy ra xích mích mỗi khi trao đổi qua điện thoại. Từ năm 2019 chị D trở về nước đã đoạn tuyệt tình cảm với anh E và sống ly thân từ đó cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị D làm đơn khởi kiện đề nghị xin được ly hôn anh E. Đối với anh E cho rằng vợ chồng có mâu thuẫn nhỏ do bất đồng quan điểm sống, không có mâu thuẫn lớn, anh cho rằng tình cảm vợ chồng vẫn còn và đề nghị xin được đoàn tụ. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần hòa giải hàn gắn mâu thuẫn vợ chồng, để hai bên có cơ hội trở về đoàn tụ, nhưng chị Dcự tuyệt tình cảm và đề nghị xin được ly hôn. Đối với anh E xin được đoàn tụ nhưng trong thời gian tòa án giải quyết vụ án anh cũng không có giải pháp nào hàn gắn mối quan hệ vợ chồng. Tại phiên tòa anh E đề nghị anh chỉ tham gia tố tụng tại phiên tòa khi có mặt chị D đồng thời đã tự ý bỏ về. Chị D có đơn xin xét xử vắng mặt, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị D là đúng quy định tại Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, yêu cầu của anh E là không có căn cứ. Việc anh E tự ý bỏ về là tự tước đi quyền tham gia tố tụng cũng như đề đạt nguyện vọng để Hội đồng xét xử xem xét tại phiên tòa.

Qua xác minh cơ sở thôn H, xã A và Công chức Tư pháp xã A đều xác nhận cuộc sống vợ chồng giữa chị D và anh E đã mâu thuẫn và hiện tại hai bên đã sống ly thân thời gian dài, đề nghị Tòa án căn cứ vào hiện trạng thực tế để giải quyết yêu cầu ly hôn của chị D theo quy định của pháp luật. Đối với chị D tại đơn xin xử án vắng mặt vẫn giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn anh E. Điều đó chứng tỏ cuộc sống tình cảm vợ chồng giữa chị D và anh E đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, cần căn cứ vào Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị D được ly hôn anh E là có căn cứ.

[3]Về con chung: Xét nguyện vọng của các đương sự về nuôi dưỡng con chung cho thấy, chị D và anh E có 02 con chung là Phạm Văn T1, sinh ngày 10/02/2005 và Phạm Tiến Tr, sinh ngày 13/12/2006. Con chung được anh E trực tiếp nuôi dưỡng chu đáo kể từ khi sống ly thân cho đến nay. Tại biên bản ghi lời khai ngày 08/6/2022 cháu Tr và cháu T1đều bày tỏ nguyện vọng xin được ở với bố. Vì vậy cần giao 02 con chung cho anh E được trực tiếp nuôi dưỡng. Tại phiên hòa giải lần 2 anh E yêu cầu chị D cấp dưỡng nuôi con chung, nhưng không đưa ra mức cụ thể. Xét điều kiện của chị Dcho thấy hiện tại chị không có nghề nghiệp ổn định, vì vậy cần ấn định mức cấp dưỡng nuôi con chung 1.500.000đồng/1 con/1 tháng là phù hợp với điều kiện kinh tế của chị D cũng như việc đảm bảo đời sống và học tập thực tiễn của hai con chung và phù hợp với Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4]Về tài sản chung: Tại biên bản ghi lời khai, biên bản hòa giải chị D và anh E đều xác nhận vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy phần tài sản Tòa án không xét.

[5]Về án phí và lệ phí tòa án: Chị D phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm và án phí cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147; khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTV QH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị D được ly hôn anh Phạm Ngọc E.

2/Về con chung: Xử giao 02 con chung Phạm Văn T1, sinh ngày 10/02/2005 và Phạm Tiến Tr, sinh ngày 13/12/2006 cho anh E được trực tiếp nuôi dưỡng. Buộc chị Dphải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh E 1.500.000đồng/1 con/1 tháng. Thời gian cấp dưỡng nuôi cfon chung được tính từ tháng 7/2022 đến khi con chung tròn 18 tuổi.

Chị D có quyền đi lại thăm nom con chung.

3/Về tài sản chung: Chị D, anh E không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4/Về án phí: Chị D phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con chung. Chuyển số tiền chị D đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0004670 ngày 19/4/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ thành tiền án phí.

5/Về quyền kháng cáo: Chị D và anh E có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung giữa chị D- anh E số 40/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:40/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về