TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 39/2022/HS-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ TỘI MUA BÁN, TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TÀNG TRỮ PHƯƠNG TIỆN, DỤNG CỤ DÙNG VÀO VIỆC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong các ngày 13 và 18 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 08/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 2 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 44/2022/HSST-QĐ ngày 23 tháng 02 năm 2022 và Thông báo mở lại phiên tòa số 187/TB-TA ngày 25 tháng 4 năm 2022 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Quang Tr, sinh năm 1978 tại tỉnh Quảng Ngãi. Nơi cư trú: Tổ 4, phường N, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Băng T (chết) và bà Nguyễn Thị L; sống như vợ chồng với Mai Thị Xuân K, có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Năm 1995 bị Tòa án nhân dân thị xã Quảng Ngãi xử phạt 06 tháng tù về tội: “Gây rối trật tự công cộng”; năm 1996 bị Tòa án nhân dân thị xã Quảng Ngãi xử phạt 03 năm tù về tội: “Cướp tài sản của công dân”; năm 2000 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 02 năm tù về tội: “Gây rối trật tự công cộng”; năm 2003 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 06 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”; tháng 02/2009 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội: “Cố ý gây thương tích”. Bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 24-9-2020 đến nay, có mặt.
2. Mai Thế A, sinh năm 1985 tại tỉnh Quảng Ngãi. Nơi cư trú: Tổ 7, phường C, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, nghề nghiệp: Không. trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Văn M (chết) và bà Bùi Thị C; vợ: Tiêu Thị Hoàng Y (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Năm 2014 bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 26-9-2020 đến nay, có mặt.
3. Trần Quốc T (tên gọi khác: Chuột), sinh năm 1996 tại tỉnh Quảng Ngãi. Nơi cư trú: Tổ 2, phường N, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đ và bà Lê Thị Kim T; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bắt tạm giữ tạm giam từ ngày 23-9-2020 đến ngày 03-10-2020 cho tại ngoại đến nay, có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo T: Bà Nguyễn Thị Bích T, Luật sư của Văn phòng luật sư T, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ngãi, có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Anh Quách Thành H (T), sinh năm 2000, địa chỉ: Số 77/75 đường P, tổ 5, phường N, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, có mặt.
- Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1956, địa chỉ: Số 581/75 đường Q, tổ 4, phường N, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, văng mặt.
- Chị Mai Thị Xuân K, sinh năm 1982, địa chỉ; Số 208 đường T, phường N, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.
Người làm chứng:
- Anh Trương Minh T (M), sinh năm 1991, địa chỉ: Hẻm 59/3 đường P, tổ 4 (tổ 11 cũ), phường T, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.
- Ông Bùi Văn T (TB), sinh năm 1970, địa chỉ: Số 33/32/11 đường L, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.
- Anh Nguyễn Lê T, sinh năm 1996, địa chỉ: Tổ 5, thị trấn S, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.
- Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1980, địa chỉ: Thôn A, xã T, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 21 giờ 00 phút ngày 23/9/2020, tại nhà nghỉ V thuộc tổ 02, phường N, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi bắt quả tang Trần Quốc T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, T khai nhận: Tối ngày 23/9/2020 có người tên M (không rõ nhân thân lai lịch) rủ và đưa tiền cho T mua ma túy sau đó đến nhà nghỉ V sử dụng. Sau đó T đến địa chỉ số nhà 581/73 đường Q, tổ 04, phường N, thành phố Quảng Ngãi mua 01 (một) túi ma túy “đá”, với giá tiền 400.000 đồng, khi T đem ma túy vừa mua đến nhà nghỉ V sử dụng thì Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi bắt quả tang, thu giữ của T 01 túi ma túy “đá” và một số đồ vật, tài liệu có liên quan.
Trên cơ sở lời khai của Trần Quốc T, ngày 24/9/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi đã tiến hành thực hiện Lệnh khám xét khẩn cấp nhà số 581/73 đường Q, tổ 04, phường N, thành phố Quảng Ngãi đây là nơi ở của Nguyễn Quang Tr. Thu giữ của Tr số ma túy đang cất giấu để bán cho người khác gồm: 25 túi ma túy “đá”; 06 gói giấy bạc chứa ma túy “đá”; 49 viên nén hình hộp chữ nhật, màu hồng; 15 viên nén hình tròn, màu hồng; 06 viên nén màu vàng và 01 túi ma túy “khay” và một số đồ vật, tài liệu có liên quan.
Nguyễn Quang Tr khai nhận: Khoảng tháng 8/2020, Tr vào thành phố Hồ Chí Minh để mua ma túy của một người (chưa rõ nhân thân, lai lịch); Tr cất giấu ma túy tại nhà vừa sử dụng vừa bán cho người khác kiếm lời với giá tiền từ 350.000 đồng đến 400.000 đồng 1 túi ma túy với phương thức: Khi có người đến nhà của Tr để hỏi mua ma túy “đá” thì Tr giao dịch mua bán ma túy thông qua hàng rào lưới B40 được che kín, do đó Tr không biết ai mua ma túy “đá” của Tr. Khoảng thời gian từ tháng 8/2020 đến ngày 24/9/2020, Tr đã bán cho nhiều người sử dụng (không rõ lai lịch) với số lượng 26 (hai mươi sáu) túi ma túy “đá”, với tổng tiền thu lợi bất chính là 12.000.000 đồng và Tr đã sử dụng 19 (mười chín) túi ma túy “đá”. Số ma túy còn lại Tr cất dấu trong nhà mục đích để bán nhưng chưa kịp bán thì bị bắt quả tang.
Ngoài ra, Nguyễn Quang Tr còn mua nhiều ống bằng thủy tinh tại thành phố Hồ Chí Minh với mục đích chế tạo ra “nỏ” bằng thủy tinh dùng vào việc sử dụng ma túy “đá”, nhưng Tr không làm được nên đã cất giấu các ống thủy tinh này tại nhà; riêng 20 (hai mươi) cái “nỏ” bằng thủy tinh Tr mua tại thành phố Hồ Chí Minh mang về cất giấu và đã sử dụng 11 (mười một) cái vào việc sử dụng ma túy “đá”, còn lại 09 (chín) cái “nỏ” Tr cất giấu dưới giường trên nền nhà tại phòng ngủ của mình nhằm mục đích dùng vào việc sử dụng ma túy “đá”.
Vào sáng ngày 24/9/2020 khi Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi tiến hành khám xét nhà số 581/73 đường Q, tổ 04, phường N, thành phố Quảng Ngãi là nơi ở của Nguyễn Quang Tr thì có mặt Mai Thế A tại đây. Mai Thế A khai nhận đã giúp cho Tr trực tiếp bán ma túy tổng cộng 02 (hai) lần, 02 (hai) túi ma túy “đá” cho những người (không rõ nhân thân, lai lịch). Cụ thể:
+ Lần thứ nhất: Mai Thế A bán 01 túi ma túy đá với số tiền 400.000 đồng; cách thức bán ma túy là nhận tiền từ người mua ma túy đưa qua hàng rào lưới B40, cầm ma túy đưa ra ngoài qua hàng rào lưới B40;
+ Lần thứ hai: Với cách thức bán ma túy như lần thứ nhất, bị can Mai Thế A bán 01 (một) túi ma túy đá với số tiền 380.000 đồng.
Ngoài ra, vào sáng ngày 24/9/2020, trong lúc ở nhà của Nguyễn Quang Tr, Mai Thế A đã nhặt được 01 (một) túi ma túy “đá” trên nền nhà trước cửa ra vào nhà vệ sinh và cất giấu vào trong ốp lưng điện thoại nhằm mục đích sử dụng riêng. Sau khi khám xét khẩn cấp, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh đã thu giữ của bị can Mai Thế A: 01 (một) túi ni lông màu trắng bên trong chứa chất rắn màu trắng Mai Thế A cất giấu trong ốp lưng điện thoại di động; 02 (hai) điện thoại di động và tạm giữ số tiền 4.300.000 đồng, trong đó gồm: Tiền cá nhân của Mai Thế A cất trong ví da là 1.200.000 đồng, tiền bán 02 (hai) túi ma túy “đá” giúp cho Nguyễn Quang Tr là 780.000 đồng, tiền Mai Thế A giữ giúp cho Nguyễn Quang Tr là 2.320.000 đồng.
Theo kết luận giám định số 729/KLGĐ-PC09 ngày 26-9-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi kết luận: Chất rắn dạng hạt tinh thể màu trắng thu giữ của Trần Quốc T bên trong phong bì gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, khối lượng mẫu: 0,18 gam.
Theo kết luận giám định số 728/KLGĐ-PC09 ngày 29-9-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi kết luận:
Các mẫu có ký hiệu số 1A, 1B, 1C, 1D, 3B, 4, 6, 8 và 12 thu giữ khi khám xét nơi ở của Nguyễn Quang Trưởng không tìm thấy chất ma túy và tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy, cụ thể như sau:
- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng bên trong phong bì ký hiệu số 1A gửi giám định có khối lượng là 210,13 gam, không tìm thấy chất ma túy và tiền chất ma túy.
- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng bên trong phong bì ký hiệu số 1B gửi giám định có khối lượng là 174,39 gam, không tìm thấy chất ma túy và tiền chất ma túy.
- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng bên trong phong bì ký hiệu số 1C gửi giám định có khối lượng là 206,17 gam, không tìm thấy chất ma túy và tiền chất ma túy.
- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng bên trong phong bì ký hiệu số 1D gửi giám định có khối lượng là 0,58 gam, không tìm thấy chất ma túy và tiền chất ma túy.
- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng bên trong hộp nhựa ký hiệu số 3B gửi giám định có khối lượng là 377,69 gam, không tìm thấy chất ma túy và tiền chất ma túy.
- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng bên trong phong bì ký hiệu số 4 gửi giám định có khối lượng là 0,41 gam, không tìm thấy chất ma túy và tiền chất ma túy.
- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng bên trong thùng xốp ký hiệu số 6 gửi giám định có khối lượng lần lượt là 1004,72 gam; 502,21 gam và 2044,03 gam, không tìm thấy chất ma túy và tiền chất ma túy.
- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng bên trong hộp vải màu đen ký hiệu số 8 gửi giám định có khối lượng là 444,70 gam, không tìm thấy chất ma túy và tiền chất ma túy.
- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng bên trong phong bì ký hiệu số 12 gửi giám định có khối lượng là 48,24 gam, không tìm thấy chất ma túy và tiền chất ma túy.
Các mẫu có ký hiệu số 1E, 2, 3A, 9, 10A, 10B thu giữ khi khám xét nơi ở của Nguyễn Quang Trưởng có tìm thấy chất ma túy, cụ thể như sau:
- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng bên trong phong bì ký hiệu số 1E gửi giám định là ma túy; loại: Methamphetamine; khối lượng mẫu: 5,68 gam.
- 15 viên nén hình trụ tròn, màu hồng, trên một mặt mỗi viên có ghi chữ WY bên trong phong bì ký hiệu số 2 gửi giám định là ma túy; loại: Methamphetamine; khối lượng mẫu: 1,37 gam.
- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng bên trong phong bì ký hiệu số 3A gửi giám định là ma túy; loại: Methamphetamine; khối lượng mẫu: 0,30 gam.
- 49 viên nén hình hộp chữ nhật, màu hồng, bên trong phong bì ký hiệu số 9 gửi giám định là ma túy; loại: MDMA; khối lượng mẫu: 17,39 gam.
- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng bên trong phong bì ký hiệu số 10A gửi giám định là ma túy; loại: Methamphetamine; khối lượng mẫu: 3,12 gam.
- Chất rắn màu trắng bên trong phong bì ký hiệu số 10B gửi giám định là ma túy; loại: Ketamine; khối lượng mẫu: 0,39 gam.
- 06 viên nén màu vàng bên trong phong bì ký hiệu số 10B gửi giám định là ma túy; loại: MDMA; khối lượng mẫu: 2,09 gam.
Như vậy: Tổng khối lượng mẫu chứa chất ma túy loại Methamphetamine là 10,47 gam, loại MDMA là 19,48 gam, loại Ketamine là 0,39 gam.
Theo kết luận giám định số 735/KLGĐ-PC09 ngày 01-10-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi kết luận chất rắn dạng hạt tinh thể màu trắng thu giữ trong áp lưng điện thoại của Mai Thế A bên trong phong bì gửi giám định là ma túy, loại: Methamphetamine, khối lượng mẫu:
0,103 gam.
Cáo trạng số 45/CT-VKS ngày 31-5-2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi truy tố bị cáo:
Nguyễn Quang Tr về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2 Điều 251 và điểm b khoản 1 Điều 254 của Bộ luật hình sự.
Mai Thế A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 và điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Trần Quốc T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Đối với Nguyễn Quang Tr: Căn cứ điểm b, p khoản 2 Điều 251, điểm b khoản 1 Điều 254, Điều 38, Điều 58, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Tr từ 7 năm 6 tháng đến 8 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và xử phạt từ 1 năm đến 1 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt từ 8 năm 6 tháng đến 9 năm 6 tháng tù.
Đối với Mai Thế A: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251 và điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 58, điểm s khoản 1 Điều 51, điều 55 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Atừ 7 năm đến 7 năm 6 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và xử phạt từ 1 năm đến 1 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt từ 8 năm đến 9 năm tù.
Đối với Trần Quốc T: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo T 1 năm đến 1 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về vật chứng đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Tr: Thống nhất với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo Tr. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo Tr thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bản thân bị cáo sống chung như vợ chồng với chị K có 01 con còn nhỏ, nhưng hiện nay chị K giao con cho bị cáo nuôi. Vì vậy, mong Hội đồng cân nhắc xem xét xử phạt bị cáo Tr ở mức khởi điểm của hai tội như đại diện Viện kiểm sát đề nghị là 7 năm 6 tháng tù về Tội mua bán trái phép chất ma túy và 1 năm tù về tội “Tàng trữ phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp là 8 năm 6 tháng tù để bị cáo có cơ hội sớm về để nuôi con.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, Kiểm sát viên. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều đúng quy định của pháp luật.
[2] Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là bà Nguyễn Thị L và chị Mai Thị Xuân K và những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa, nhưng đã có lời khai trong quá trình điều tra và việc vắng mặt của những người này không trở ngại cho việc giải quyết vụ án, do đó căn cứ vào Điều 292, 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án nêu trên và người làm chứng.
[3] Tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, xét lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu giữ cùng các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, do đó Hội đồng xét xử có cơ sở xác định:
Đối với bị cáo Trần Quốc T: Tối ngày 23/9/2020, vì muốn có ma túy để sử dụng nên khi có người rủ và đưa tiền, bị cáo liền đồng ý cầm tiền đến số nhà 581/73 đường Q, tổ 04, phường N, thành phố Quảng Ngãi để mua 01 túi ma túy “đá”, với giá tiền 400.000 đồng rồi cất giấu trong người mang đến nhà nghỉ V để sử dụng, khi đến nhà nghỉ V chưa kịp sử dụng thì bắt quả tang. Theo kết luận giám định loại ma túy mà bị cáo cất giấu trong người là Methamphetamine, khối lượng 0,18gam. Với hành vi nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi truy tố bị cáo T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Đối với bị cáo Nguyễn Quang Tr: Bị cáo là người nghiện ma túy, để có tiền tiêu xài và có ma túy để sử dụng, khoảng tháng 8/2020 bị cáo vào thành phố Hồ Chí Minh mua ma túy của một người chưa rõ nhân thân, lai lịch, sau khi mua được ma túy bị cáo đem về cất giấu tại căn nhà số 581/73 đường Q, tổ 04, phường N, thành phố Quảng Ngãi. Khoảng thời gian từ tháng 8/2020 đến ngày 24/9/2020, bị cáo đã bán nhiều lần, cho nhiều người với số lượng 26 túi ma túy “đá”, với tổng tiền thu lợi bất chính là 12.000.000 đồng và bị cáo đã sử dụng 19 túi ma túy “đá”. Số ma túy còn lại gồm 25 túi ma túy “đá”; 06 gói giấy bạc chứa ma túy “đá”; 49 viên nén hình hộp chữ nhật, màu hồng; 15 viên nén hình tròn, màu hồng; 06 viên nén màu vàng và 01 túi ma túy “khay” bị cáo cất giấu trong nhà mục đích để bán nhưng chưa kịp bán thì bị bắt quả tang. Theo kết luận giám định, tổng khối lượng chất ma túy thu giữ khi bắt quả tang tại nhà bị cáo Tr ở gồm: Ma túy loại Methamphetamine là 10,47 gam, loại MDMA là 19,48 gam, loại Ketamine là 0,39 gam. Căn cứ khoản 3, Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02-02-2018 của Chính phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật hình sự năm 2015 thì tổng tỷ lệ phần trăm khối lượng các chất ma túy Methamphetamine và MDMA so với mức tối thiểu của từng chất quy định tại khoản 3 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 là: (10,47gam/30gam x 100%) + (19,48gam/30gam x 100%)+ (0.39gam/100gam x100%) = 99,8039% < 100% nên thuộc trường hợp quy định tại điểm p khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015. Ngoài ra, bị cáo Tr còn cất giấu 09 ống “nỏ” bằng thủy tinh nhằm mục đích làm phương tiện, dụng cụ sử dụng ma túy „đá”. Với hành vi nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi truy tố bị cáo Tr về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b, p khoản 2 Điều 251 và tội “Tàng trữ phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 1 Điều 254 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Đối với bị cáo Mai Thế A: Tối ngày 23-9-2020 bị cáo đã bán giúp ma túy cho bị cáo Tr hai lần, hai túi ma túy “đá” và sáng ngày 24-9-2020, bị cáo đã nhặt được 01 túi ma túy “đá” trong nhà nơi bị cáo Tr ở và cất giấu vào trong ốp lưng điện thoại nhằm mục đích sử dụng riêng. Theo kết luận giám định ma túy mà bị cáo cất giấu là loại Methamphetamine, khối lượng 0,103 gam. Với hành vi nêu trên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi truy tố bị cáo A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo: Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ tác hại các chất ma túy đối với cộng đồng, xã hội nhưng các bị cáo vẫn cố tình thực hiện các hành vi mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy và tàng trữ phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy.
Đối với bị cáo T vì để có ma túy sử dụng, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.
Đối với bị cáo Tr và bị cáo A: Hai bị cáo đồng phạm về tội Mua bán trái phép chất ma túy, tuy nhiên đây là vụ án đồng phạm giản đơn, các bị cáo nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện. Bị cáo Tr là người có vai trò chính, là người trực tiếp mua ma túy về cất giấu với mục đích để mua bán, khi nghiện có để sử dụng và bị cáo đã bán nhiều lần. Đồng thời, bị cáo còn tàng trữ 09 nỏ thủy tinh là phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo A khi đến nhà bị cáo Trưởng chơi, trong thời gian bị cáo Tr đang tắm đã nhờ bị cáo A bán giúp ma túy 2 lần, nên bị cáo A đồng phạm với bị cáo Tr với vai trò giúp sức.
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến chính sách độc quyền về quản lý các chất ma túy của nhà nước mà còn gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của cộng đồng và là nguyên nhân để gây ra nhiều tội phạm khác, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bên cạnh đó, bị cáo Tr và bị cáo A có nhân thân xấu, trước đây đã từng bị kết án về tội mua bán trái phép chất ma túy. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt nghiêm để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội và phòng ngừa chung tội phạm. Tuy nhiên, cũng cần cân nhắc tình tiết giảm nhẹ, vai trò phạm tội của từng bị cáo để có mức hình phạt tương xứng với từng bị cáo.
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các bị cáo đã thành khẩn khai báo nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho các bị cáo.
[6] Các hành vi và đối tượng có liên quan:
Đối với các đối tượng còn lại có mặt tại nhà số 581/73 đường Q, tổ 04, phường N, thành phố Quảng Ngãi khi thực hiện khám xét vào ngày 24/9/2020, gồm: Trương Minh T, Quách Thành H, Bùi Văn T, Nguyễn Thị L. Theo tài liệu có tại hồ sơ vụ án thể hiện: Các đối tượng trên không liên quan đến việc thực hiện hành vi phạm tội của Nguyễn Quang Tr, Mai Thế A và Trần Quốc T nên Cơ quan điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi không xử lý trách nhiệm hình sự.
Đối với đối tượng đã bán ma túy và các “nỏ” cho Nguyễn Quang Tr. Do Tr không cung cấp được nhân thân lai lịch, nên Cơ quan điều tra không có cơ sở để xác minh làm rõ.
Đối với các đối tượng đến nhà Nguyễn Quang Tr để mua ma túy. Do các Nguyễn Quang Tr và Mai Thế A không có đầy đủ thông tin về nhân thân và lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra không có cơ sở để xác minh làm rõ.
Đối với đối tượng tên M, người đã đưa tiền cho Trần Quốc T mua ma túy. Do T không cung cấp được nhân thân, lai lịch, số điện thoại cụ thể. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác minh được đối tượng. Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh và đề nghị xử lý sau.
[7] Về xử lý vật chứng:
Đồ vật, tài liệu tạm giữ của bị cáo Trần Quốc T:
+ Đối với 01 (một) phong bì niêm phong số: 729/PC09(GĐ-2020) bên ngoài có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi, bên trong chứa chất ma túy cùng vỏ, bao gói hoàn lại sau giám định và 01 (một) vỏ bao thuốc lá màu đen - bạc, trên vỏ bao thuốc lá có ghi chữ “SAIGON SILVER”. Đây là ma túy và dụng cụ bị cáo Toàn sử dụng cất giấu ma túy nên tịch thu, tiêu hủy.
+ Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Vivo Y31 màu đen - trắng, có gắn 01 thẻ sim Viettel được để trong phong bì bên ngoài được đánh số 1, có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi và tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam 50.000 đồng không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo Toàn.
Đồ vật, tài liệu tạm giữ của bị cáo Nguyễn Quang Tr:
+ Đối với 01 (một) hộp giấy niêm phong số 728/PC09(GĐ-2020-2) bên ngoài có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi, bên trong phong bì chứa chất ma túy cùng toàn bộ vỏ, bao gói hoàn lại sau giám định; 01 (một) valy nhựa màu vàng có dây kéo (đã qua sử dụng), bị cáo Trưởng dùng để cất dấu ma túy; 01 (một) túi ni lông màu đỏ bên trong chứa nhiều túi ni lông nhỏ, rỗng, là những túi ny lông bị cáo Trưởng dùng để phân ma túy để bán; 01 (một) hộp nhựa, kích thước (13 x 17 x 7,5) cm bên trong hộp nhựa chứa 01 (một) cái nỏ bằng thủy tinh đã qua sử dụng; 01 (một) túi ni lông kích thước (18 x 12) cm, bên trong chứa nhiều túi ni lông màu trắng rỗng; 01 (một) đầu khò gas mini và 40 (bốn mươi) ống thủy tinh dài 20 cm, 14 (mười bốn) bình gas mini (trong đó có một bình ga gắn đầu khò lửa);
01 (một) hộp nhựa màu trắng; 02 (hai) kéo, 02 (hai) Panh; 02 (hai) kiềm; 01 (một) phễu; 01 (một) thùng giấy bên trong chứa nhiều ống hút nhựa; 01 (một) đĩa sứ màu trắng; 01 (một) thẻ có chữ Rive gate Residence Access card và 01 (một) tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng (mười nghìn đồng) được quấn tròn bị hư không còn giá trị sử dụng; 02 (hai) con dao kích thước lần lượt là 32 cm và 30 cm; 05 (năm) bình xịt hiệu TAKE DOWN; 01 (một) hộp giấy màu đen kích thước (20 x 7) cm, bên ngoài được dán giấy trắng niêm phong, có đóng dấu của Công an phường Nghĩa Chánh, bên trong chứa 09 (chín) nỏ bằng thủy tinh; 01 (một) túi xách da màu nâu bên trong có một bình xịt hiệu NATO; 01 (một) con dao có vỏ bằng gỗ dài 64,6 cm; 01 (một) pin cầm tay màu đen hình trụ tròn dài 43,6 cm, kèm theo tác dụng kích điện; 10 (mười) con dao bên trong bao màu xanh; 01 (một) hộp giấy có kích thước (48x15x3) cm chứa 02 (hai) dao có kích thước lần lượt là 45,2 cm và 37 cm. Xét đây là ma túy còn lại sau giám định, dụng cụ để chứa đựng, cất giấu ma túy và các đồ vật dùng để chế tạo công cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy nên tịch thu, tiêu hủy.
+ Đối với 01 (một) điện thoại hiệu Samsung màu đen, để trong 01 phong bì bên ngoài được đánh số 3, có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi; 01 (một) điện thoại hiệu MASSTEL màu cam - đen, có gắn thẻ sim vinaphone, để trong 01 phong bì bên ngoài được đánh số 2, có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi và 01 (một) điện thoại hiệu Nokia màu đen, để trong 01 phong bì bên ngoài được đánh số 4, có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi. Đây là tài sản thu giữ của bị cáo Tr, sau khi điều tra xác định không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo Tr.
+ Đối với 01 (một) vật hình trụ (hình dạng giống quả nổ), màu cam, không ký hiệu, ngòi đã được lắp chặt vào thân, cơ cấu bảo hiểm vẫn còn nguyên. Cơ quan điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi đã thu giữ khi khám xét chỗ ở của bị Nguyễn Quang Tr vào ngày 24/9/2020. Cục Quân khí có Công văn số: 6459/QK-ĐD xác định: “01(một) vật trụ (hình dạng giống quả nổ), màu cam…” là Thân lựu đạn ném tập LĐ-01-TAP. Đây là loại lựu đạn dùng trong huấn luyện (sử dụng để tập ném lựu đạn) có hình dáng tương đương lựu đạn thật, khi xuất xưởng bên trong không có thuốc nổ, quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tách ra để điều tra xử lý sau, nên Hội đồng xét xử không giải quyết trong vụ án này.
+ Đối với 01 (một) thùng xốp được niêm phong số 728/PC09(GĐ- 2020-1) bên ngoài có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi, bên trong phong bì chứa các chất không phải là ma túy cùng toàn bộ vỏ, bao gói được hoàn lại sau giám định; 01 (một) cây kim loại dài 2,31m, đường kính 2,4 cm; 01 (một) đầu có ba chĩa nhọn, chĩa dài nhất 35cm và 02 (hai) con dao kích thước lần lượt dài 70,8 cm và 69 cm. Tại bản kết luận điều tra bổ sung, Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa xác định được ai là chủ sở hữu và đề nghị tách ra để điều tra xử lý sau, nên giao lại các vật chứng này cho Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi để tiếp tục điều tra xác minh, xử lý.
+ Đối với 01 (một) hộp giấy niêm phong bên ngoài có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi, bên trong hộp giấy chứa: 01 (một) mẫu vật màu đen có nhãn hiệu “60.000K VOLT 928 TYPE…” và 01 (một) túi vải màu đen có dây kéo bên trong chứa 01 (một) mẫu vật màu đen và 03 cục rời màu đen (trong đó có 01 cục rời không còn nguyên vẹn do đã bắn thực nghiệm). Theo kết luận giám định số 766/KLGĐ- PC09 ngày 26-10-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi xác định là công cụ hỗ trợ được quy định tại điểm a, d khoản 11 Điều 3 Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017. Hành vi tàng trữ công cụ hỗ trợ của bị cáo Tr chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 306 của Bộ luật hình sự, nên giao công cụ hỗ trợ này cho Công an thành phố Quảng Ngãi để xử lý theo Luật xử lý vi phạm hành chính.
+ Đối với số tiền Cơ quan điều tra thu giữ khi bắt bị can Tr là 16.200.000 đồng, trong đó có 12.000.000 đồng là số tiền bị cáo thu lợi bất chính từ việc mua bán ma túy nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước. Số tiền còn lại là 4.200.000 đồng, qua điều tra xác định đây là tiền của cá nhân của bị cáo Tr không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo Tr.
+ Đối với 01 (một) máy tính bảng hiệu Samsung, màu vàng, để trong 01 phong bì bên ngoài được đánh số 5, có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi và số tiền 10.400.000 đồng, Cơ quan điều tra đã thu giữ tại chỗ ở của Tr. Qua điều tra xác định đây là tài sản của chị Mai Thị Xuân K không liên quan đến việc phạm tội của bị cáo Tr nên trả lại cho chị K.
Đồ vật, tài liệu tạm giữ của bị cáo A:
+ Đối với 01 (một) điện thoại màu đen, nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy A20, được bỏ trong 01 (một) phong bì bên ngoài được đánh số 6, có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh. Đây là chiếc điện thoại bị cáo A đã dùng để cất dấu ma túy và số tiền 780.000 đồng. Đây là tiền mà bị cáo A thu lợi từ việc giúp Tr bán ma túy vào sáng ngày 24/9/2020, nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
+ Đối với 01 (một) điện thoại hiệu Nokia màu hồng, có gắn thẻ sim Mobifone, để trong phong bì bên ngoài được đánh số 7, có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi và tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam: 1.200.000 đồng, qua điều tra xác định không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.
+ Đối với số tiền 2.320.000 đồng. Đây là số tiền mà bị cáo A cất giữ giùm cho bị cáo Tr vào sáng ngày 24/9/2020, qua điều tra xác định không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo A.
[8] Đề nghị của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận; đề nghị của người bào chữa cho bị cáo Tr có phần không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[9] Về án phí: Các bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
Điểm b, p khoản 2 Điều 251, điểm b khoản 1 Điều 254, Điều 38, Điều 58, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo Nguyễn Quang Tr).
Điểm b khoản 2 Điều 251 và điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, Điều 58, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo Mai Thế A).
Điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (đối với bị cáo Trần Quốc T).
Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 và Điều 106, Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự.
Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố:
Bị cáo Nguyễn Quang Tr phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy”.
Bị cáo Mai Thế A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Bị cáo Trần Quốc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt:
- Bị cáo Nguyễn Quang Tr 08 (Tám) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt cả hai tội là 09 (Chín) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24-9-2020.
- Bị cáo Mai Thế A 07 (Bảy) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt cả hai tội là 08 (Tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 26-9-2020.
- Bị cáo Trần Quốc T 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án, được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 23-9-2020 đến ngày 03-10-2020.
2. Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 12.780.000 đồng.
- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong số: 729/PC09(GĐ- 2020) bên ngoài có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi, bên trong chứa chất ma túy cùng vỏ, bao gói hoàn lại sau giám định và 01 (một) vỏ bao thuốc lá màu đen - bạc, trên vỏ bao thuốc lá có ghi chữ “SAIGON SILVER”.
- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) hộp giấy niêm phong số 728/PC09(GĐ- 2020-2) bên ngoài có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi, bên trong phong bì chứa chất ma túy cùng toàn bộ vỏ, bao gói hoàn lại sau giám định; 01 (một) valy nhựa màu vàng có dây kéo (đã qua sử dụng); 01 (một) túi ni lông màu đỏ bên trong chứa nhiều túi ni lông nhỏ, rỗng; 01 (một) hộp nhựa, kích thước (13 x 17 x 7,5) cm bên trong hộp nhựa chứa 01 (một) cái nỏ bằng thủy tinh đã qua sử dụng; 01 (một) túi ni lông kích thước (18 x 12) cm, bên trong chứa nhiều túi ni lông màu trắng rỗng; 01 (một) đầu khò gas mini và 40 (bốn mươi) ống thủy tinh dài 20 cm, 14 (mười bốn) bình gas mini (trong đó có một bình ga gắn đầu khò lửa); 01 (một) hộp nhựa màu trắng; 02 (hai) kéo, 02 (hai) Panh; 02 (hai) kiềm; 01 (một) phễu; 01 (một) thùng giấy bên trong chứa nhiều ống hút nhựa; 01 (một) đĩa sứ màu trắng; 01 (một) thẻ có chữ Rive gate Residence Access card và 01 (một) tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng (mười nghìn đồng) được quấn tròn bị hư không còn giá trị sử dụng; 02 (hai) con dao kích thước lần lượt là 32 cm và 30 cm; 05 (năm) bình xịt hiệu TAKE DOWN; 01 (một) hộp giấy màu đen kích thước (20 x 7) cm, bên ngoài được dán giấy trắng niêm phong, có đóng dấu của Công an phường Nghĩa Chánh, bên trong chứa 09 (chín) nỏ bằng thủy tinh; 01 (một) túi xách da màu nâu bên trong có một bình xịt hiệu NATO; 01 (một) con dao có vỏ bằng gỗ dài 64,6 cm; 01 (một) pin cầm tay màu đen hình trụ tròn dài 43,6 cm, kèm theo tác dụng kích điện; 10 (mười) con dao bên trong bao màu xanh;
01 (một) hộp giấy có kích thước (48x15x3) cm chứa 02 (hai) dao có kích thước lần lượt là 45,2 cm và 37 cm.
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) điện thoại màu đen, nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy A20, được bỏ trong 01 (một) phong bì bên ngoài được đánh số 6, có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi.
- Giao 01 (một) hộp giấy niêm phong bên ngoài có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi, bên trong hộp giấy chứa: 01 (một) mẫu vật màu đen có nhãn hiệu “60.000K VOLT 928 TYPE…” và 01 (một) túi vải màu đen có dây kéo bên trong chứa 01 (một) mẫu vật màu đen và 03 cục rời màu đen (trong đó có 01 cục rời không còn nguyên vẹn do đã bắn thực nghiệm) cho Công an thành phố Quảng Ngãi để xử lý theo Luật xử lý vi phạm hành chính.
- Giao 01 (một) thùng xốp được niêm phong số 728/PC09(GĐ-2020-1) bên ngoài có đóng dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi, bên trong phong bì chứa các chất không phải là ma túy cùng toàn bộ vỏ, bao gói được hoàn lại sau giám định và 01 (một) cây kim loại dài 2,31m, đường kính 2,4cm; 01 (một) đầu có ba chĩa nhọn, chĩa dài nhất 35cm và 02 (hai) con dao kích thước lần lượt dài 70,8cm và 69 cm cho Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi để tiếp tục điều tra xác minh, xử lý.
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Quang Tr 01 (một) điện thoại hiệu Samsung màu đen, để trong 01 phong bì bên ngoài được đánh số 3, có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi; 01 (một) điện thoại hiệu MASSTEL màu cam - đen, có gắn thẻ sim vinaphone, để trong 01 phong bì bên ngoài được đánh số 2, có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi và 01 (một) điện thoại hiệu Nokia màu đen, để trong 01 phong bì bên ngoài được đánh số 4, có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi và số tiền còn lại là 4.200.000 đồng - Trả lại cho bị cáo Trần Quốc T (một) điện thoại di động hiệu Vivo Y31 màu đen - trắng, có gắn 01 thẻ sim Viettel được để trong phong bì bên ngoài được đánh số 1, có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi và số tiền 50.000 đồng.
- Trả cho chị Mai Thị Xuân K 01 (một) máy tính bảng hiệu Samsung, màu vàng, để trong 01 phong bì bên ngoài được đánh số 5, có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi và số tiền 10.400.000 đồng.
- Trả lại cho bị cáo Mai Thế A 01 (một) điện thoại hiệu Nokia màu hồng, có gắn thẻ sim Mobifone, để trong phong bì bên ngoài được đánh số 7, có đóng dấu niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ngãi và số tiền 3.520.000 đồng.
(Tất cả các vật chứng có đặc điểm cụ thể theo biên bản giao nhận vật chứng ngày lập ngày 16-8-2021 giữa Công an thành phố Quảng Ngãi và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi và tất cả các khoản tiền nêu trên tổng cộng là 30.950.000 đồng, Công an thành phố Quảng Ngãi đã nộp vào tài khoản số 3949.0.9043031.00000 của Công an thành phố Quảng Ngãi mở tại Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi theo giấy ủy nhiệm chi lập ngày 23-8- 2021).
3. Về án phí:
Các bị cáo Nguyễn Quang Tr, Mai Thế A và Trần Quốc T, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niên yết theo quy định pháp luật.
Bản án 39/2022/HS-ST ngày 18/05/2022 về tội mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy và tàng trữ phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 39/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Quảng Ngãi - Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/05/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về