Bản án 106/2017/HSST ngày 08/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỦY NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 106/2017/HSST NGÀY 08/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 9 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành  phố  Hải Phòng  xét  xử  sơ  thẩm  công  khai  vụ  án  hình  sự  thụ  lý  số 82/2017/HSST ngày 16 tháng 8 năm 2017, đối với bị cáo:

Đỗ Văn H sinh năm 1986 tại H; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn 4, xã T, huyện T, thành phố H; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Đỗ Văn Q sinh năm 1963 và bà Trần Thị T sinh năm 1963; Tiền án, tiền sự: Không; Bị tạm giam từ ngày 21/4/2017; Có mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo Đỗ Văn H bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên, thành phố Hải Phòng truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 19 giờ 45 phút ngày 12 tháng 4 năm 2017, Đồn Công an khu công nghiệp VSIP kết hợp với Công an xã An Lư làm nhiệm vụ tại thôn A, xã A, huyện T, thành phố H đã phát hiện, bắt quả tang Đỗ Văn H có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy. Thu giữ của H 04 gói giấy bạc bên trong chứa chất bột màu trắng. Tổ công tác đã đưa H cùng vật chứng về trụ sở Công an xã An Lư lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Tại bản Kết luận giám định số 593 ngày 14 tháng 4 năm 2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: chất bột thu giữ của Hùng có trọng lượng là 0,1965 gam trong đó trọng lượng heroin là 0,1355 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Đỗ Văn H khai nhận: Do bản than nghiện ma túy nên H mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khoảng 19 giờ ngày 12 tháng 4 năm 2017, H mua 300.000 đồng Heroine của đối tượng H sinh năm 1974, nhà ở gần UBND xã T, huyện T, thành phố H. Ban đầu, H khai cùng H giao dịch mua bán ma túy ở khu vực cổng nhà H. H đã 03 lần mua ma túy của H. Sau đó, Hùng thay đổi lời khai, H đến mua ma túy thấy cửa nhà H đóng, hùng đứng ngoài gọi H mua 300.000 đồng Heroine. H không nhìn thấy người bán ma túy cho mình, H đưa tiền qua khe hở dưới cổng sát mặt đất, người trong nhà nhận tiền và ném 04 gói Heroine qua khe hở đó. H không xác định được chính xác H là người bán ma túy cho mình. H cất 04 gói Herone vừa mua được vào túi quần phía trước bên phải, đi về xã A, huyện T , H tìm nơi sử dụng thì bị Công an bắt quả tang cùng vật chứng như nội dung nêu trên. Cơ quan điều tra tiến hành cho H xác định vị trí nơi mua ma túy, H không xác định được.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra tiến hành triệu tập đối tượng Nguyễn Văn H sinh năm 1979, trú tại: Thôn 1, xã T, huyện T, H ghi lời khai. Tại Cơ quan điều tra, H khai: H có quen biết với Đỗ Văn H được khoảng 4 năm, H không có mâu thuẫn với H. H nghiện ma túy nhưng không bán ma túy cho H, Cơ quan điều tra đã cho H nhận dạng đối với Nguyễn Văn H, kết quả H xác định H không phải là người bán ma túy cho mình.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy còn lại sau giám định chuyển Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thủy Nguyên.

Bản Cáo trạng số 102/CT-VKS ngày 15 tháng 8 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên đã truy tố bị cáo Đỗ Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa bị cáo Đỗ Văn H khai nhận và thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Đỗ Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Khoản 1 Điều 194; Điều 33; Điểm p khoản 1 Điều 46 của BLHS; Xử phạt bị cáo Đỗ Văn H từ 30 tháng đến 36 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ; Không phạt tiền bị cáo; Về vật chứng của vụ án, đề nghị áp dụng Điều 41 của BLHS; Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS): Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chất ma túy còn lại sau giám định.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham tố tụng khác.

XÉT THẤY

Lời khai của bị cáo Đỗ Văn H tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có trong hồ sơ, đủ căn cứ kết luận: Hành vi cất giấu0,1965 gam ma túy trong đó trọng lượng heroinr là 0,1355 gam để sử dụng cho bản thân của bị cáo Đỗ Văn H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điều194 của BLHS. Cáo trạng số 102/CT-VKS ngày 15 tháng 8 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên truy tố bị cáo như đã nêu trên là đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, vi phạm các chính sách pháp luật của Nhà nước về phòng chống ma túy. Hiện nay ma túy là hiểm họa đối với con người, tác động xấu đến kinh tế, xã hội, an ninh trật tự, đạo đức, lối sống, văn hóa, hạnh phúc gia đình. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy nhưng không có ý thức ngăn chặn, đẩy lùi ra khỏi đời sống xã hội mà vẫn ngang nhiên tàng trữ và sử dụng trái phép. Vì vậy cần phải có hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo để cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của BLHS;

Từ phân tích trên, cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo, xử phạt bị cáo với mức án bằng mức khởi điểm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

Về hình phạt bổ sung: Tại khoản 5 Điều 194 của BLHS quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền. Biên bản xác minh tài sản của cơ quan điều tra thể hiện bị cáo không có tài sản, sống phụ thuộc. Vậy xác định bị cáo không có khả năng thi hành hình phạt tiền nên không phạt tiền bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Số ma túy còn lại sau giám định là vật chứng của vụ án cần tịch thu tiêu hủy; Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Đỗ Văn H 30 (ba mươi ) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ là ngày 21 tháng 4 năm 2017.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự và Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa chất ma túy còn lại sau giám định.(Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 07 tháng 8 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên).

Về án phí: Áp dụng Điều 99 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phíTòa án; Bị cáo  Đỗ Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

443
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 106/2017/HSST ngày 08/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:106/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:08/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về