Bản án 09/2023/HS-ST ngày 06/04/2023 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐĂK NÔNG

BẢN ÁN 09/2023/HS-ST NGÀY 06/04/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 4 năm 2023 tại Phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 07/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2023/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Trần Xuân Y, sinh ngày 14/9/2004 tại tỉnh Đắk Nông; Nơi đăng kY HKTT và chỗ ở trước khi phạm tội: Thôn Đức L, xã Đức M, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lê Manh T, sinh năm 1968 và bà Trần Thị Kim L, sinh năm 1976; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án: Không; tiền sự: 01, Ngày 06/10/2022 bị UBND xã Đức Mạnh ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản.

Bị bắt tạm giam từ 13/12/2022 đến ngày 04/01/2023 chuyển sang biện pháp bảo lĩnh, tại ngoại - có mặt.

Bị hại: Bà Lê Đặng Thị Thanh H, sinh năm 1972 – Vắng mặt.

Nơi cư trú: Thôn Đức Ph, xã Đức M , huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Phạm Trọng Th, sinh năm 2005 – Có mặt.

Nơi cư trú: Thôn Đức A, xã Đức M, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 07/11/2022, Lê Trần Xuân Y(sinh năm 2004, trú tại Thôn Đức L, xã Đức M, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông) cùng Phạm Trọng Th (sinh năm 2005, trú tại Thôn Đức A, xã Đức M) đi chơi tại địa bàn xã Đức M, huyện Đắk Mil thì gặp Y K (chưa rõ nhân thân lai lịch) và Đinh Pr (chưa rõ nhân thân lai lịch) là bạn của Y và Th. Lúc này, Y K rủ Y và Th đi hái trộm cà phê bán lấy tiền tiêu sài thì cả nhóm đồng Y và thống nhất chọn khu vực rẫy cà phê của bà Lê Đặng Thị Thanh H (sinh năm 1972) thuộc Thôn Đức A, xã Đức M (gần nhà Th) để trộm cắp tài sản. Để tránh bị phát hiện, Y điều khiển xe vào đậu trong sân nhà Th, Y K điều khiển xe đi đường dân sinh lên khu vực phía trước rẫy bà H. Th đi vào nhà lấy 01 rổ nhựa màu đỏ cùng với Y trèo hàng rào phía sau nhà Th qua khu vực rẫy của anh Hoàng Văn D (là chồng cũ của chị gái Th), cả hai đi bộ đến vị trí cây bơ sát hàng rào của rẫy anh D giáp ranh với rẫy bà H. Y Kvà Đinh Pr mang theo 01 bao xác rắn màu xanh đã chuẩn bị từ trước đi bộ vào rẫy bà H đến hàng rào giáp ranh với khu vực rẫy anh D để gặp Y và Th. Cả nhóm bàn bạc phân công nhiệm vụ, cụ thể: Y Kvà Đinh Pr trực tiếp sử dụng rổ nhựa, bao xác rắn để hái trộm cà phê tại rẫy bà H, còn Th và Y trèo lên cây bơ để cảnh giới. Trong lúc Y K và Đinh Pr đang hái trộm cà phê, Y và Th thấy có người đến nên báo hiệu cho Y K và Đinh Pr đẩy bao xác rắn đựng cà phê đến sát hàng rào rồi chạy ra phía ngoài khu vực rẫy để trốn, còn Y và cũng đi về nhà Th để tránh bị nghi ngờ. Đến khi thấy không còn người, Y và Th quay lại vị trí bao xác rắn đựng cà phê nhưng không thấy Y Kvà Đinh Pr quay lại nên Y và Th cũng bỏ lại bao cà phê đã hái trộm được và quay về nhà.

Đến khoảng 16 giờ ngày 08/11/2022, bà Lê Đặng Thị Thanh H đi vào rẫy, phát hiện bao xác rắn màu xanh đựng cà phê đang để sát bờ rào của rẫy mình, nghi có người hái trộm cà phê nên bà đã trình báo đến Công an xã Đức Mạnh. Sau khi tiếp nhận tin báo, công an xã Đức Mạnh đến hiện trường tiến hành cân bao cà phê mà bà H phát hiện được 75kg, qua khảo sát tài sản xác định giá trị là 667.500 đồng. Triệu tập làm việc với Phạm Trọng Th và Lê Trần Xuân Y. Tại công an xã, 02 đối tượng khai nhận hành vi trộm cắp tài sản như hành vi trên.

Xét thấy Lê Trần Xuân Y đã có hành vi trộm cắp tài sản đã bị xử phạt vi phạm hành chính theo Quyết định số: 129 ngày 06/10/2022 của UBND xã Đức Mạnh, ngày 07/11/2022 tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản như trên, do đó đã có dấu hiệu của tội phạm trộm cắp tài sản. Ngày 11/11/2022, Công an xã Đức Mạnh chuyển hồ sơ đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Mil để tiếp tục điều tra, xử lY theo thẩm quyền. Với tài liệu, chứng cứ thu thập được, ngày 06/12/2022 Cơ quan điều tra khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Lê Trần Xuân Y để điều tra theo quy định.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 52/KL – ĐGTS, ngày 28/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông kết luận:

75 kg cà phê quả tươi trị giá 637.500 đồng (Sáu trăm ba mươi bảy nghìn, năm trăm đồng).

Bản cáo trạng số: 03/CT – VKS (ĐM), ngày 24/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil truy tố bị cáo Lê Trần Xuân Y về tội “ Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không oan.

Kết quả tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo như nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX)tuyên bố bị cáo Lê Trần Xuân Y phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 52; Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Trần Xuân Y từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng.

Về xử lY vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, chấp nhận Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil đã trả lại 75 kg cà phê quả tươi cho chị Lê Đặng Thị Thanh H là chủ sở hữu hợp pháp. Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bao xác rắn màu xanh. Đối với chiếc rổ nhựa màu đỏ Cơ quan cảnh sát điều tra đã áp dụng các biện pháp truy tìm nhưng không thu giữ được nên không đặt ra vấn đề xử lY.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Lê Đặng Thị Thanh H không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa Kiểm sát viên, bị cáo không bào chữa và cũng không tranh luận gì thêm mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đắk Mil, Điều tra viên, quyết định tố tụng Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có mặt không có Y kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Hội đồng xét xử thấy rằng: Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 07/11/2022, tại Thôn Đức A, xã Đức M, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, Lê Trần Xuân Y(là người có hành vi trộm cắp tài sản đã bị xử phạt vi phạm hành chính theo Quyết định số: 129 ngày 06/10/2022 của Ủy ban nhân dân xã Đức M, cùng ngày bị cáo nhận được Quyết định xử phạt và đã đóng tiền phạt nhưng chưa hết thời hiệu để được xem là không có tiền sự), Phạm Trọng Th, Đinh Pr và Y Kđã lén lút hái trộm của chị Lê Đặng Thị Thanh H 75 kg cà phê quả tươi có giá trị 637.500 đồng (Sáu trăm ba mươi bảy nghìn năm trăm đồng). Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm a. Đã bi xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm ..........”

[3] Xét hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo nhận thức được tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người khác là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được quyền đối với tài sản của người khác được pháp luật công nhận và bảo vệ nhưng do Y thức coi thường pháp luật của bị cáo nên bị cáo vẫn phạm tội.

Xét về nhân thân của bị cáo HĐXX xét thấy: Bị cáo Lê Trần Xuân Y có tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản đã bị xử phạt vi phạm hành chính theo Quyết định số: 129 ngày 06/10/2022 của Ủy ban nhân dân xã Đức Mạnh, cùng ngày bị cáo nhận được Quyết định xử phạt và đã đóng tiền phạt nhưng chưa hết thời hiệu để được xem là không có tiền sự. Tuy nhiên, bị cáo vẫn không tự nhận thức được hành vi vi phạm của mình, cải tạo, tu dưỡng bản thân trở thành người có ích cho xã hội mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới. Vì vậy, đối với lần trộm cắp này bị cáo thực hiện việc trộm cắp cà phê tuy giá trị chưa đến mức 2.000.000 đồng nhưng do bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm nên bị cáo đã phạm tội trộm cắp tài sản theo điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình được quy định tại các điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra vào ngày 14/12/2022 chị Lê Đặng Thị Thanh H có đơn xin bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, HĐXX nhận thấy cần xem xét tình tiết trên để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước ta.

Bị cáo Lê Trần Xuân Y có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và có đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của BLHS và Nghị quyết số 02/VBHN – TANDTC ngày 07/9/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Vì vậy, HĐXX xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được học tập, cải tạo ngoài xã hội dưới sự giám sát của chính quyền địa phương và gia đình cũng đủ tác dụng răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp nên cần chấp nhận.

[7] Về hình phạt bổ sung: Biên bản xác minh ngày 13/12/2022 xác định bị cáo không có tài sản riêng. Vì vậy, Hội đồng xét xử, xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Lê Đặng Thị Thanh H không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về xử lY vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46; Điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil trả lại 75 kg cà phê quả tươi cho chị Lê Đặng Thị Thanh H là chủ sở hữu hợp pháp.

Tịch thu tiêu hủy 01 bao xác rắn màu xanh.

Đối với chiếc rổ nhựa màu đỏ Cơ quan cảnh sát điều tra đã áp dụng các biện pháp truy tìm nhưng không thu giữ được nên không có cơ sở giải quyết.

[10] Đối với Phạm Trọng Th là người chưa có tiền án, tiền sự về tội trộm cắp tài sản hoặc các tội xâm phạm sở hữu, tài sản trộm cắp chưa đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil đã chuyển cơ quan có thẩm quyền ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật.

[11] Đối với đối tượng Đinh Pr và Y K (chưa xác định được nhân thân lai lịch), Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil tiếp tục điều tra làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý Y sau.

[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[13] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Trần Xuân Y phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Lê Trần Xuân Y 07(bảy) tháng tù, được hưởng án treo, thời gian thử thách là 01(một) năm 02(hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (06/4/2023).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Đức M, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án Hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố Y vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Lê Trần Xuân Y.

3. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46; Điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil trả lại 75 kg cà phê quả tươi cho chị Lê Đặng Thị Thanh H là chủ sở hữu hợp pháp (Đặc điểm vật chứng đã giao theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Mil và với người bị hại chị Lê Đặng Thị Thanh H ngày 06/12/2022).

Tịch thu tiêu hủy 01 bao xác rắn màu xanh(Đặc điểm vật chứng đã giao theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk Mil và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Đắk Mil ngày 27/02/2023).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về phí, của thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Lê Trần Xuân Y phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

89
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 09/2023/HS-ST ngày 06/04/2023 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:09/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về