HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
*****
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập - Tự Do - Hạnh Phúc
*******
|
Số:
318-CP
|
Hà
Nội, ngày 10 tháng 09 năm 1979
|
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC KHUYẾN KHÍCH TẬN DỤNG RUỘNG ĐẤT NÔNG NGHIỆP
Hiện nay tại các địa phương việc
sử dụng ruộng đất còn nhiều lãng phí: diện tích ruộng đất chỉ làm một vụ còn
khá nhiều, có nhiều ruộng đất, ao hồ còn bỏ hoang, hóa, v.v.. . Để thực hiện khẩu
hiệu “tấc đất tấc vàng”, để khuyến khích cơ sở sản xuất và người lao động sản
xuất ra nhiều lương thực, thực phẩm cho xã hội và cải thiện đời sống nhân dân,
Hội đồng Chính phủ quyết định các chính sách khuyến khích tận dụng ruộng đất
nông nghiệp như sau:
1. Đối với
diện tích làm vụ đông:
Các tỉnh và thành phố phải có kế
hoạch chỉ đạo các nông trường, các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất mở rộng diện
tích vụ đông đến mức cao nhất. Ngay khi lập kế hoạch sản xuất vụ đông, các
nông trường, hợp tác xã và tập đoàn sản xuất phải có kế hoạch huy động nhân lực,
vật tư, phương tiện để cố gắng đạt diện tích tăng vụ cao nhất, thực hiện vượt mức
chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước đã giao. Đối với những diện tích mà nông trường, hợp
tác xã, tập đoàn sản xuất đã tính toán với mức cố gắng cao nhất mà vẫn không
làm hết trong thời vụ quy định thì nông trường, hợp tác xã hoặc tập đoàn sản xuất
cần được tạm giao cho đội sản xuất, các nhóm lao động, gia đình xã viên hoặc
các cơ quan, đơn vị quân đội mượn để gieo trồng cây vụ đông. Sản phẩm vụ đông của
tập thể thì hợp tác xã, tập đoàn sản xuất chia thêm cho xã viên, không tính vào
cân đối lương thực. Sản phẩm cây vụ đông sản xuất ra trên đất hợp tác xã cho mượn
thì đội sản xuất, nhóm lao động hoặc gia đình xã viên nào làm thì được hưởng
không tính vào phương án ăn chia.
Nếu cơ quan Nhà nước có yêu cầu
thu mua sản phẩm của tập thể và gia đình xã viên thì ký hợp đồng hai chiều và
theo giá thỏa thuận.
Các hợp tác xã và tập đoàn sản
xuất phải coi việc giao đất cho xã viên mượn để tận dụng trong vụ đông như một
nguồn kinh tế phụ gia đình cần khuyến khích và giúp đỡ nhất là khâu làm đất, giống
và thuỷ lợi. Các nhóm lao động và gia đình xã viên được hợp tác xã cho mượn đất
phải bảo đảm những điều kiện sau đây:
- Phải bảo đảm làm cho hợp tác
xã hoặc tập đoàn sản xuất đủ số ngày công do hợp tác xã quy định trong từng vụ,
nhất là lúc thời vụ gieo trồng, thu hoạch khẩn trương không được thiếu ngày
công;
- Phải bảo đảm giao nộp cho hợp
tác xã hoặc tập đoàn sản xuất đủ và kịp thời số lượng phân bó đã quy định trong
từng vụ;
- Phải trả lại ruộng đất cho hợp
tác xã hoặc tập đoàn sản xuất gieo trồng cây vụ xuân đúng thời vụ.
2. Đối với
ruộng đất bỏ hóa một vụ:
Các tỉnh thành phố phải có kế hoạch
chỉ đạo cụ thể các nông trường, hợp tác xã và tập đoàn sản xuất tích cực đưa ruộng
một vụ trở thành ruộng hai vụ. Số diện tích đưa lên hai vụ phải ghi thành chỉ
tiêu kế hoạch hàng năm và phải được giải quyết cân đối vốn đầu tư, lao động,
phân bón, v.v… Trước mắt đối với số diện tích hợp tác xã hoặp tập đoàn sản xuất
chưa có điều kiện kinh doanh hai vụ thì phải giao cho đội sản xuất, nhóm lao động,
gia đình xã viên hoặc cơ quan, đơn vị quân đội mượn để gieo trồng thêm một vụ nữa,
Hợp tác xã và tập đoàn sản xuất cần tạo điều kiện thuận lợi giúp đỡ đội sản xuất,
nhóm lao động và gia đình xã viên trong việc sản xuất tăng vụ trên đất cho mượn.
Đội sản xuất, nhóm lao động, gia
đình xã viên được hợp tác xã cho mượn đất gieo trồng thêm một vụ phải thu hoạch
nhanh gọn để trả lại ruộng đất cho hợp tác xã trước khi gieo cấy vụ sau.
Sản phẩm thu hoạch được trên diện
tích nói trên do đội sản xuất, nhóm lao động và gia đình xã viên sử dụng,
khônng tính vào phương án ăn chia của hợp tác xã và tập đoàn sản xuất.
3. Đối với đất
hoang hóa:
Hiện nay, địa phương nào cũng
còn một số ruộng đất, hồ ao còn bỏ hoang, hóa. Các tỉnh, thành phố cần có kế hoạch
kiểm tra và có biệp pháp cụ thể để đôn đốc và giúp các cơ sở khai hoang, phục
hóa số diện tích này, không được để ruộng, đất bỏ hoang hóa. Nếu hợp tác xã hoặc
tập đoàn sản xuất chưa có điều kiện khai hoang, phục hóa thì hợp tác xã phải
giao cho đội sản xuất, nhóm lao động, đoàn thể ở xã, gia đình xã viên hoặc các
cơ quan, đơn vị quân đội khai hoang, phục hóa. Người có công khai hoang được sử
dụng đất 5 năm, người có công phục hóa được sử dụng 3 năm, sau đó sẽ giao lại
cho hợp tác xã, tập đoàn sản xuất quản lý. Khi hợp tác xã hoặc tập đoàn sản xuất
nhận ruộng đất cần trả thù lao cho nguời có công khai phá một cách thích đáng;
người có công khai hoang phục hóa có quyền sử dụng toàn bộ sản phẩm thu hoạch
được trên ruộng đất, hồ ao khai hoang phục hóa, được miễn thuế theo chính sách
hiện hành và không phải nộp bất cứ một khoản thuế hoặc lệ phí nào cho địa
phương trong thời gian nói trên.
4. Đối với
dược mạ:
Hiện nay các hợp tác xã, tập
đoàn sản xuất có khoảng 10% đất dược mạ, cần có kế hoạch tăng vụ trên diện tích
này. Các tỉnh, thành phố cần tính toán cụ thể, chỉ đạo các hợp tác xã, tập
đoàn sản xuất sau khi nhổ mạ cần để lại một tỷ lệ diện tích dược mạ nhất định để
làm ruộng nhân thả bèo hoa dâu giống và gieo trồng các cây phân xanh khác. Số
diện tích còn lại cần gieo cấy thêm một vụ lúa hoặc hoa màu, nhằm tăng thêm thu
nhập cho hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Các địa phương cần áp dụng các biện
pháp gieo mạ sân, mạ dầy, gieo thẳng để bớt điện tích dược mạ.
5. Đối với đất
nông nghiệp đã được quyết định dùng cho công trình xây dựng, đất ở các nông trường,
lâm trường trạm trại nông nghiệp chưa sử dụng đến:
Cơ quan được giao đất nông nghiệp
nếu chưa sử dụng phải có kế hoạch đưa vào sản xuất nông nghiệp, không được để đất
hoang hóa. Nếu cơ quan được giao đất không sử dụng hết, phải cho các hợp tác
xã, các cơ quan, đơn vị bộ đội hoặc gia đình xã viên ở xung quanh mượn để sản
xuất. Khi cơ quan được giao đất muốn lấy lại phải báo cho người mượn đất biết
trước 3 tháng trở lên.
Đối với diện tích dùng cho xây dựng
cơ bản, nếu để quá 6 tháng không sử dụng thì phải trả lại cho cơ sở sản xuất;
nơi nào đã đào đất thuộc thành thùng đấu thì phải có kế hoạch san lấp để đưa
vào sản xuất.
Đội sản xuất, nhóm lao động, gia
đình xã viên và các cơ quan, đơn vị được mượn đất để sản xuất có trách nhiệm bảo
vệ màu mỡ của đất.
6. Đối với hồ,
ao:
Những hồ, ao lớn, hợp tác xã, tập
đoàn sản xuất đã quản lý thì phải có kế hoạch sử dụng, kinh doanh thiết thực có
hiệu quả kinh tế cao. Những ao nhỏ liền với thổ cư, thì không nên quản lý, nơi
nào đã quản lý nhưng chưa sử dụng tốt thì giao lại cho xã viên sử dụng.
7. Trách
nhiêm của các ngành, các cấp:
Bộ nông nghiệp có trách nhiệm hướng
dẫn các ngành, các địa phương thi hành quyết định này. Tổng cục quản lý ruộng đất
và cơ quan quản lý ruộng đất ở địa phương có trách nhiệm kiểm tra đôn đốc các hợp
tác xã, tập đoàn sản xuất và các cơ quan có đất hoang hóa thi hành cụ thể quyết
định này. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố căn cứ vào đặc điểm tình hình cụ thể
để các ngành, các cấp ở địa phương thi hành.
Hội đồng nhân dân xã và Ủy ban
nhân dân xã có trách nhiệm giám sát, đôn đốc các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất
và các cơ quan có đất hoang hóa ở địa phương chấp hành quyết định này. Các hợp
tác xã, tập đoàn sản xuất cần phát huy tinh thần làm chủ tập thể của quần chúng
xã viên, dân chủ bản bạc, bảo đảm công bằng hợp lý và có kế hoạch cụ thể giúp đỡ
các đội sản xuất, nhóm lao động và gia đình xã viên tận dụng từng mảnh đất để đẩy
mạnh sản xuất, ngăn ngừa những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra trong nội bộ hợp
tác xã, tập đoàn sản xuất như chỉ chăm lo sản xuất của gia đình, không chăm lo
công việc sản xuất của tập thể, không công bằng trong việc giao đất cho xã viên
mượn.v.v…
Mọi tập thể và cá nhân đều có
quyền đòi hỏi các cơ quan, đơn vị, hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, có đất bỏ
hoang, cho mượn đất để sản xuất. Các cơ quan quản lý có đất bỏ hoang hóa, dù là
hợp tác xã, tập đoàn sản xuất hay cơ quan Nhà nước đều phải giải quyết nhanh
chóng các yêu cầu của xã viên, hoặc của các cơ quan, đơn vị khác xin tận dụng
những diện tích còn bỏ hoang hóa. Nếu vì quan liêu, vô trách nhiệm mà không giải
quyết các yêu cầu chính đáng của người xin tận dụng diện tích bỏ hoang hóa thì
người đứng dầu các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, các cơ quan, đơn vị có đất bỏ
hoang hóa phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước và chịu xử phạt theo pháp luật
hiện hành.
Ủy ban nhân dân các cấp có trách
nhiệm phổ biến rộng rãi quyết định này cho nhân dân biết đế thi hành.
|
TM.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
KT. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Lê Thanh Nghị
|