BỘ TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC THUẾ
--------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------
|
Số: 2178/TCT-HTQT
V/v Thuế thu nhập cá nhân theo Hiệp định thuế
giữa Việt Nam-Hàn Quốc.
|
Hà Nội, ngày 11
tháng 06 năm 2014
|
Kính gửi:
|
- Cục thuế tỉnh Bắc Ninh
- Công ty Samsung Electronices Co., Ldt.
|
Tổng cục thuế nhận được công văn số
2110-01/2013 và số 2110-02/2013 ngày 21/10/2013 của Công ty Samsung
Electronices Co., Ldt (SEC) đề nghị hướng dẫn về
việc xác định thân phận cư trú của các nhân viên hỗ
trợ kỹ thuật Hàn Quốc (sau đây gọi tắt là nhân viên) và nghĩa vụ thuế của
cá nhân nước ngoài đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công phát sinh tại Việt
Nam. Về vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
1. Đối với các nhân viên ở Việt Nam trên 183 ngày trong một năm tính thuế.
- Điều 4 (Đối tượng cư
trú) của Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và Hàn Quốc (sau đây gọi là Hiệp định) quy định:
“1. Theo định nghĩa trong Hiệp định
này, thuật ngữ “đối tượng cư trú của một Nước ký kết”
có nghĩa là bất cứ đối tượng nào, mà theo các luật của Nước đó, là đối tượng
chịu thuế căn cứ vào nhà ở, nơi cư trú, trụ sở đầu não hay trụ sở chính, trụ
sở điều hành hoặc bất cứ tiêu chuẩn khác
có tính chất tương tự.
2. Trường hợp theo những quy định
tại khoản 1 khi một cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, thì
thân phận cư trú của cá nhân đó sẽ được xác định như sau:
a. cá nhân đó sẽ được coi là đối
tượng cư trú của Nước ký kết mà tại đó cá nhân đó có nhà ở thường trú. Nếu cá
nhân đó có nhà ở thường trú ở cả hai Nước ký kết,
thì cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú của Nước ký kết mà cá nhân đó có
các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ
hơn (trung tâm của các quyền lợi chủ yếu);
b. nếu như không thể xác định được
Nước ký kết mà ở đó cá nhân đó có trung tâm các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá
nhân đó không có nhà ở thường trú ở cả hai Nước ký kết thì cá nhân đó được coi là đối tượng cư trú của Nước ký kết
mà cá nhân đó thường sống;
…”
- Luật thuế Thu nhập của Hàn Quốc quy định: “cá nhân có nhà ở hoặc đã có
nhà ở tại Hàn Quốc trong 1 năm trở lên được
coi là đối tượng cư trú”
- Khoản 2, Điều 2,
Chương I, Luật thuế Thu nhập cá nhân (TNCN) của Việt Nam số 04/2007/QH12
quy định:
“2. Cá nhân cư trú là người đáp ứng
một trong các điều kiện sau đây:
a) Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày
trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc tính theo 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu
tiên có mặt tại Việt Nam;
…”
Đối với trường
hợp của SEC, các nhân viên dài hạn có nhà ở tại Hàn Quốc từ 1 năm trở
lên và có mặt tại Việt Nam là trên 183 ngày trong năm tính thuế thì các nhân
viên này là đối tượng cư trú của cả hai nước.
Xét về khung thời gian xác định cư
trú là năm tính thuế (từ tháng 1 đến tháng 12), các nhân viên hỗ trợ kỹ thuật dài hạn có nhà ở thường trú ở cả
hai nước, nhưng các nhân viên này có quyền lợi kinh tế chủ yếu ở Việt Nam do phần
lớn thời gian làm việc tại Việt Nam và thường sống tại Việt Nam nên các nhân
viên này được coi là đối tượng cư trú của Việt Nam trong năm tính thuế theo quy
định tại Khoản 2, Điều 4 của Hiệp định nêu trên.
Căn cứ hướng dẫn tại Mục
I, Phần B, Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 và Khoản
2, Điều 7, Chương II, Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 15/8/2003 của Bộ Tài
chính, đối với đối tượng cư trú của Việt Nam, thu nhập chịu thuế là thu nhập
phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam. Thu nhập từ tiền lương, tiền công
chịu thuế TNCN theo biểu thuế lũy tiến từng phần.
2. Đối với các nhân viên ở Việt Nam dưới 183 ngày trong một năm tính thuế.
Trường hợp các nhân viên ngắn hạn
(các nhân viên ở Việt Nam dưới 183 ngày trong một năm tính thuế) được xác định
là đối tượng cư trú của Hàn Quốc, nghĩa vụ thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền
lương, tiền công do thực hiện công việc làm công tại Việt Nam của các nhân viên
này được căn cứ theo quy định tại các Khoản 1 và 2, Điều 15
(Hoạt động dịch vụ cá nhân phụ thuộc) của Hiệp định, cụ thể:
“1. Thể theo quy định tại Điều 16,
18, 19, 20 và 21 các khoản tiền lương, tiền công, và các khoản tiền thù lao
tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước
đó, trừ khi công việc của đối tượng đó được thực hiện tại Nước ký kết kia. Nếu
công việc làm công được thực hiện như vậy, số tiền công trả cho lao động đó có
thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Mặc dù có những quy định tại khoản
1, tiền công do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động
làm công tại Nước ký kết kia sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước thứ nhất nếu:
a. người nhận tiền công có mặt ở
Nước kia trong một thời gian hoặc nhiều thời gian gộp lại không quá 183 ngày
trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng, và
b. chủ lao động hay đại diện chủ
lao động trả tiền công lao động không phải là đối tượng cư trú tại Nước kia, và
c. số tiền công không phải phát
sinh tại một cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định mà người chủ lao động có tại
Nước kia”
Theo quy định trên, thu nhập của các
nhân viên ngắn hạn từ công việc làm công tại Việt Nam sẽ chỉ chịu thuế TNCN tại
Hàn Quốc (được miễn thuế TNCN tại Việt Nam) nếu cả 3 điều kiện a., b. và c. nêu trên đồng thời được thỏa mãn.
Trong trường
hợp này, các nhân viên hỗ trợ kỹ thuật ngắn hạn có mặt tại Việt Nam dưới
183 ngày (thỏa mãn điều kiện a.), nếu không thỏa mãn 1 trong 2 điều kiện b. và c. nêu trên, Việt Nam sẽ có quyền
đánh thuế đối với thu nhập từ công việc làm công tại Việt Nam của các nhân viên
này. Khi đó, Hàn Quốc có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp tránh đánh thuế hai lần
đối với các nhân viên này theo quy định tại Khoản 2, Điều 23 (Các
biện pháp xóa bỏ đánh thuế hai lần) của Hiệp định.
Việc xác định các nhân viên ngắn hạn
có thỏa mãn 2 điều kiện b. và c. nêu trên hay không được thực hiện như sau:
+ Đối với điều kiện b. liên quan đến
chủ lao động thực sự: tại điểm 3, Mục 10, Điều 31, Thông tư số
205/2013/TT-BTC ngày 24/12/2013 của Bộ Tài chính có hướng dẫn về khái niệm
“chủ lao động thực sự”. Theo đó, thông thường một đối tượng được coi là chủ lao
động thực sự trong các trường hợp sau đây:
(i) Đối tượng đó có quyền đối với sản
phẩm và dịch vụ do người lao động tạo ra và chịu trách nhiệm cũng như rủi ro đối
với lao động đó;
(ii) Đối tượng đó đưa ra hướng dẫn và
cung cấp phương tiện lao động cho người lao động;
(iii) Đối tượng đó có quyền kiểm soát
và chịu trách nhiệm về địa điểm lao động.
Để xác định chủ lao động thực sự theo
các trường hợp nêu trên, Cục thuế cần kiểm tra hợp đồng (hoặc thỏa thuận) và thực
tế để xác định chủ lao động thực sự như: SEC có quyền đối với sản phẩm do các
nhân viên tạo ra và chịu trách nhiệm và rủi ro khi nhân viên không hoàn thành
công việc hay không. SEC có chịu trách nhiệm bồi thường khi công việc không đạt
chất lượng hay không. Đồng thời, cần xem xét đến việc SEC có cung cấp phương tiện
lao động và kiểm soát công việc, cũng như chịu trách nhiệm về địa điểm làm việc
không. Lợi ích mà SEC thu được từ Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam
(SEV) đối với việc đưa nhân viên sang làm việc tại SEV.
+ Đối với điều kiện (c): Trường hợp
xác định được SEC là chủ lao động của các nhân viên sang làm việc tại Việt Nam,
sẽ kiểm tra việc SEC cung cấp dịch vụ thông qua việc cử nhân viên sang làm việc
tại SEV có tạo thành cơ sở thường trú tại Việt Nam theo quy định tại Điều 5 (Cơ
sở thường trú) của Hiệp định hay không, cụ thể:
(i) SEC có duy trì một “cơ sở kinh doanh”
tại Việt Nam hay không; và
(ii) Cơ sở này có tính chất cố định,
nghĩa là thiết lập một địa điểm xác định và/ hoặc được duy trì thường xuyên hay
không; và
(iii) SEC tiến hành toàn bộ hoặc một phần
hoạt động kinh doanh thông qua cơ sở này hay không.
Để có cơ sở xác định các điều kiện
nêu trên, Cục thuế cần kiểm tra xác định sự hiện diện cơ sở kinh doanh cố định
của SEC (cơ sở kinh doanh cố định trong trường hợp
này là cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho hoạt động của các nhân viên hỗ trợ
kỹ thuật ngắn hạn do SEC thuê hoặc sở hữu, kể cả các cơ sở vật chất, kỹ thuật của
SEV mà SEC có quyền định đoạt - nghĩa là sử dụng không trên nguyên tắc thị trường);
thời gian SEC thực hiện việc cử các nhân viên sang Việt Nam; thời gian thực tế
các nhân viên của SEC hiện diện tại Việt Nam; trách nhiệm, quyền hạn, lợi ích,
cam kết của mỗi bên trong việc cử nhân viên sang làm việc tại SEV...
Đề nghị SEC cung cấp cho Cơ quan thuế
(Cục Thuế tỉnh Bắc Ninh) các thông tin, tài liệu có liên quan đến giao dịch giữa
SEC và SEV để Cơ quan thuế có căn cứ kiểm tra thực tế đối với từng điều kiện
trên.
Tổng cục Thuế thông báo Cục thuế tỉnh
Bắc Ninh và SEC biết để thực hiện theo đúng quy định tại các văn bản quy phạm
pháp luật đã được trích dẫn tại văn bản này./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Vụ TNCN;
- Lưu: VT, HTQT (2b).
|
TL. TỔNG CỤC
TRƯỞNG
KT. VỤ TRƯỞNG VỤ HỢP TÁC QUỐC TẾ
PHÓ VỤ TRƯỞNG
Trần Thị Thanh Bình
|