Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con số 82/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 82/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 14 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 402/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 11 năm 2021 về việc tranh chấp “Xin ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị NGUYỄN THỊ THANH TH, sinh năm 1998.

Địa chỉ: ấp B, xã Hòa H, huyện Cái B, tỉnh Tiền G.

2. Bị đơn: Anh NGUYỄN THÀNH L, sinh năm 1994.

Địa chỉ: ấp H, xã Hòa H, huyện Cái B, tỉnh Tiền G.

(Chị Th có mặt, anh L vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai, trong quá trình giải quyết vụ án và lời khai tại Tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh Th trình bày:

Do quen biết chị và anh L chính thức xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa H, huyện Cái B, tỉnh Tiền G. Sống hạnh phúc đến cuối tháng 2 năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, không hợp nhau nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau và anh chị đã chính thức ly thân từ tháng 2 năm 2021 cho đến nay. Nay chị cương quyết yêu cầu được ly hôn anh L.

Con chung có 01 cháu tên Nguyễn Hồng Y, sinh ngày 07/3/2018 hiện đang sống với chị. Nay chị yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Vào ngày 08/11/2021 nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh Th có đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu chia tài sản chung và nợ chung.

Vào ngày 30/11/2021 chị Th có nộp đơn xin rút đơn khởi kiện bổ sung để chị tự thỏa thuận giải quyết nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Thành L không có văn bản ý kiến và vắng mặt không lý do.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như trên. Bị đơn vắng mặt không lý do.

Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa: Về tố tụng: Việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử và của các đương sự chấp hành đúng qui định của pháp luật tố tụng dân sự. Hiện tại thì chưa phát hiện sai sót gì để kiến nghị khắc phục. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Th, cho chị Th được ly hôn anh L; Giao con chung cho chị Th nuôi, anh L không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con vì chị Th không yêu cầu; Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Anh Nguyễn Thành L vắng mặt không rõ lý do mặc dù đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh L.

Về nội dung:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Tại phiên tòa, chị Th trình bày do quen biết nên chị và anh L xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hòa H, huyện Cái B, tỉnh Tiền G. Sau khi cưới, anh chị sống hạnh phúc đến tháng 2 năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm, không hợp về tính tình nên thường xuyên cãi nhau và anh chị đã chính thức ly thân từ tháng 2 năm 2021 cho đến nay. Nay chị cương quyết yêu cầu được ly hôn anh L. Xét thấy, cho chị Th được ly hôn anh L là có cơ sở. Bởi lẽ, từ khi ly thân tới nay anh chị cũng không có phương án nào để hàn gắn xây dựng tổ ấm chăm sóc con nhỏ và tại phiên tòa hôm nay chị Th khẳng định không còn tình cảm vợ chồng với anh L. Đồng thời, quá trình thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật cho anh L để đảm bảo quyền nêu ý kiến của anh, cũng như hoà giải để anh chị đoàn tụ nhưng anh L vẫn không có văn bản trình bày ý kiến và vắng mặt không lý do. Chứng tỏ, anh cố tình từ bỏ quyền phản đối, quyền chứng minh của mình và thể hiện anh không còn quan tâm đến cuộc sống hôn nhân giữa anh và chị Th nên không có biện pháp nào để hàn gắn, đoàn tụ được. Do đó, cuộc sống hôn nhân của anh chị đã thật sự đổ vỡ, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Cho nên, chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Th là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Có 01 cháu tên Nguyễn Hồng Y, sinh ngày 07/3/2018 hiện đang sống với chị Th. Xét thấy, tiếp tục giao cháu cho chị Th nuôi là có cơ sở. Bởi lẽ, cháu đã sống ổn định với chị Th từ khi vợ chồng ly thân đến nay. Đồng thời, trong suốt quá trình giải quyết vụ án, anh L không cung cấp bất kỳ văn bản ý kiến gì liên quan đến yêu cầu được nuôi con chung của chị Th. Từ đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung, tránh xáo trộn về mặt tâm sinh lý, đời sống học tập của cháu nên giao cháu Nguyễn Hồng Y, sinh ngày 07/3/2018 cho chị Th được tiếp tục nuôi dưỡng là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét là có căn cứ.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Vào ngày 08/11/2021 nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thanh Th có đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu chia tài sản chung và nợ chung. Vào ngày 30/11/2021 chị Th có nộp đơn xin rút đơn khởi kiện bổ sung để tự thỏa thuận giải quyết nên không yêu cầu Tòa án giải quyết cũng như anh L không có ý kiến gì liên quan đến tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét là có căn cứ.

[6] Về án phí: Chị Th phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[7] Xét ý kiến phát biểu của vị đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 227, Điều 228; Điều 147; Điều 271 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử :

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Thanh Th. Cho chị Nguyễn Thị Thanh Th được ly hôn anh Nguyễn Thành L.

Về con chung: Tiếp tục giao cháu tên Nguyễn Hồng Y, sinh ngày 07/3/2018 cho chị Th nuôi dưỡng. Anh Nguyễn Thành L không phải cấp dưỡng nuôi con do chị Th không có yêu cầu.

Sau khi ly hôn, anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thanh Th phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chị đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí theo biên lai số 0000852 ngày 05/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cái Bè nên xem như thi hành xong.

Về quyền kháng cáo: Chị Th được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với anh L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con số 82/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:82/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về