Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con số 16/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẠC LIÊU - TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 16/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 26 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu tiến hành phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 17/2022/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 01 năm 2022 về tranh chấp “Xin ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2022/QĐXX-ST ngày 21 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thị Thuý L, sinh năm 1979 (Vắng mặt) Địa chỉ: Khóm N, phường M, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.

- Bị đơn: Ông Ngô Phước L, sinh năm 1979 (Vắng mặt) Địa chỉ: Khóm N, phường M, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Huỳnh Thị Thúy L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông L tự nguyện chung sống vợ chồng từ năm 1999, có tổ chức lễ cưới theo phong tục, có đăng ký kết hôn với nhau và được Ủy ban nhân dân Phường 7, thị xã Bạc Liêu (nay là thành phố Bạc Liêu), tỉnh Bạc Liêu cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 11/6/1999. Quá trình vợ chồng chung sống tình cảm ban đầu hòa thuận đến năm 2019 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã, ông Lộc thường xuyên xúc phạm, đánh đập bà cho rằng bà có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác bên ngoài và bà đã về nhà mẹ ruột sống tháng 7 năm 2021 đến nay. Ngày 23/02/2022 để tạo điều kiện cho vợ chồng gặp nhau hàn gắn tình cảm tại nhà mẹ ruột của bà thì vừa gặp mặt ông L đã hành hung bà, ông L dùng tay đánh vào mặt và đầu của bà. Bà có trình báo đến Công an Phường 3, thành phố Bạc Liêu và Công an có mời ông L đến để làm việc. Mặc dù ông L cho rằng bà có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác bên ngoài, nhưng ông L lại thường xuyên dẫn gái về nhà và các con bà cũng biết điều nay. Nay bà L xác định tình cảm vợ chồng không còn và xin ly hôn với ông L.

Về con chung: Vợ chồng bà có 04 con chung tên Ngô Khánh T, sinh năm 2002, Ngô Khánh T1, sinh ngày 03/3/2004, Ngô Mỹ T, sinh ngày 06/6/2006; Ngô Khánh T2, sinh ngày 30/9/2011. Khi ly hôn bà L yêu cầu được nuôi cháu T2 (Hiện cháu T2 đang sống cùng bà L) và đồng ý giao cháu Mỹ T cho ông L chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục (Hiện cháu T đang sống cùng ông L). Bà L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Đối với cháu Ngô Khánh T và cháu Ngô Khánh T1 đã đủ tuổi trưởng thành, phát triển bình thường và đủ khả năng tự nuôi sống bản thân nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án ông Ngô Phước L được Tòa án triệu tập, thông báo hợp lệ nhiều lần, nhưng ông Lộc vắng mặt không lý do nên không có lời trình bày.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu phát biểu quan điểm:

- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý cho đến phiên tòa xét xử sơ thẩm hôm nay, Tòa án đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Giải quyết đúng thẩm quyền, cấp, tống đạt các văn bản tố tụng đúng quy định. Việc chấp hành pháp luật của đương sự đã thực hiện đầy đủ. Vì vậy, về mặt tố tụng Viện kiểm sát không có ý kiến hay kiến nghị gì.

- Về nội dung vụ án: Về hôn nhân: bà L và ông L chung sống có đăng ký kết hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp. Vợ chồng đã mâu thuẫn, không thể hàn gắn được và vợ chồng đã ly thân từ tháng 7 năm 2021 đến nay nên việc bà L yêu cầu ly hôn là có căn cứ chấp nhận. Về con chung: Bà L yêu cầu được nuôi cháu Ngô Khánh T2, sinh ngày 30/9/2011. Hiện nay cháu T2 đang sống cùng bà L và có ý kiến muốn sống với mẹ. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Ngô Khánh T2 cho bà L tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Đối với cháu Ngô Mỹ T, sinh ngày 06/6/2006 (Hiện cháu T đang sống cùng ông L) có ý kiến muốn sống với ông L và bà L cũng thống nhất giao cháu Mỹ T cho ông L nuôi dưỡng nên đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Mỹ T cho ông L trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Đối với cháu Ngô Khánh T và cháu Ngô Khánh T đã đủ tuổi trưởng thành, phát triển bình thường và đủ khả năng tự nuôi sống bản thân nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về cấp dưỡng: Bà L và ông L không yêu cầu cấp dưỡng nên không đặt ra xem xét giải quyết. Về tài sản chung: Tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có nên không đặt ra xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa và sau khi thảo luận Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn bà Huỳnh Thị Thúy L khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn là ông Ngô Phước L nên đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn là ông L, hiện đang cư trú tại thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu nên vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Huỳnh Thị Thúy L có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn là ông Ngô Phước L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vắng mặt không rõ lý do. Do đó, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn bà L và bị đơn là ông L theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự là phù hợp.

[3] Xét quan hệ hôn nhân: Bà Huỳnh Thị Thúy L và ông Ngô Phước L đăng ký kết hôn với nhau ngày 11/6/1999 tại Ủy ban nhân dân Phường 7, thị xã Bạc Liêu (nay là thành phố Bạc Liêu), tỉnh Bạc Liêu trên cơ sở được tự do tìm hiểu và hoàn toàn tự nguyện. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Quá trình chung sống vợ chồng bà L và ông L thường xuyên phát sinh nhiều mâu thuẫn hay xảy ra cãi vã với lý do ông L cho rằng bà L có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác. Mâu thuẫn vợ chồng kéo dài nhiều năm và vào ngày 23/02/2022 ông L có hành vi hành hung bà là dùng tay đánh vào mặt và đầu của bà L. Bà L có trình báo với chính quyền địa phương và chính quyền địa phương có mời ông L lên làm việc. Ngoài ra, ông L còn đăng hình ảnh của bà L cùng những dòng tin lăng mạ, bêu xấu bà L lên mạng xã hội nhằm để xúc phạm nhân phẩm, danh dự của bà L. Hơn nữa, vợ chồng bà L đã sống ly thân từ tháng 7 năm 2021 đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà L xin ly hôn với ông Ngô Phước L. Quá trình giải quyết việc bà L xin ly hôn, ông L biết việc bà L xin ly hôn nhưng ông L không quan tâm và bỏ mặc để bà L tự giải quyết. Thể hiện ông L cũng không còn quan tâm gì đến hạnh phúc gia đình, tình trạng hôn nhân giữa bà L và ông L là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu của bà L và cho bà L được ly hôn ông L là phù hợp.

[4] Về con chung: Bà L và ông L có 04 con chung tên Ngô Khánh T, sinh năm 2002, Ngô Khánh T1, sinh ngày 03/3/2004, Ngô Mỹ T, sinh ngày 06/6/2006; Ngô Khánh T2, sinh ngày 30/9/2011. Khi ly hôn bà L yêu cầu được nuôi cháu Ngô Khánh T2. Hội đồng xét xử xét thấy hiện nay cháu T2 đang sống cùng bà L và có ý kiến muốn sống với mẹ nên có căn cứ giao cháu Ngô Khánh T2 cho bà L tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ông L có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được quyền ngăn cản. Đối với cháu Ngô Mỹ T có nguyện vọng muốn sống với ông L và bà L cũng thống nhất giao cháu Mỹ T cho ông L nuôi dưỡng nên có cơ sở giao cháu Mỹ T cho ông L trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Bà L có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được ngăn cản. Đối với cháu Ngô Khánh T và cháu Ngô Khánh T1 đã đủ tuổi trưởng thành, phát triển bình thường và đủ khả năng tự nuôi sống bản thân nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về cấp dưỡng: Trong quá trình giải quyết vụ án bà L và ông L không yêu cầu cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết tại phiên tòa hôm nay.

[6] Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết tại phiên tòa hôm nay.

[7] Về án phí: Bà L phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Như đã phân tích ở trên, có căn cứ chấp nhận toàn bộ đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 và điểm a, b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Áp dụng khoản 1 Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1/. Về hôn nhân: Xử cho bà Huỳnh Thị Thúy L được ly hôn với ông Ngô Phước L.

2/. Về con chung: Giao cháu Ngô Khánh T2, sinh ngày 30/9/2011 cho bà Huỳnh Thị Thúy L trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục (Hiện cháu T2 đang sống cùng bà L). Giao cháu Ngô Mỹ T, sinh ngày 06/6/2006 cho ông Ngô Phước L tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục (Hiện cháu T đang sống cùng ông L). Bà Huỳnh Thị Thúy L và ông Ngô Phước L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở. Đối với cháu Ngô Khánh T và cháu Ngô Khánh T1 đã đủ tuổi trưởng thành, phát triển bình thường và đủ khả năng tự nuôi sống bản thân nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3/.Về cấp dưỡng: Bà L và ông L không yêu cầu cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

4/. Về tài sản chung: Tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

5/. Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

6/. Về án phí: Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm bà Huỳnh Thị Thúy L phải nộp 300.000 đồng. Bà L đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0007279 ngày 24 tháng 01 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu được chuyển thu án phí.

7/. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

72
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con số 16/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:16/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về