Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con số 130/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 130/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/05/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 17 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 531/2021/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 12 năm 2021 về việc tranh chấp “Xin ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị NGUYỄN THỊ KIỀU T, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Thôn An V, xã S, huyện Hàm T, tỉnh B

2. Bị đơn: Anh TRẦN HOÀNG TH, sinh năm 1987.

Địa chỉ: ấp Mỹ Th, xã T, huyện Cái B, tỉnh G.

(Chị T có mặt anh Th vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai trong quá trình giải quyết vụ án và lời khai tại Toà, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kiều T trình bày:

Do quen biết nên chị và anh Th xác lập quan hệ vợ chồng cưới nhau vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T vào ngày 31/05/2014. Vợ chồng sống hạnh phúc một thời gian thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do không hợp tính tình, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Th có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác ở bên ngoài, không quan tâm chăm sóc vợ con từ đó dẫn đến cuộc sống chung của vợ chồng không hạnh phúc, chị đã cho anh Th nhiều cơ hội để hàn gắn nhưng không được và anh chị chính thức ly thân nhau từ tháng 4 năm 2021 cho đến nay. Nay chị cương quyết yêu cầu được ly hôn anh Th.

Con chung có 01 cháu tên Trần Đức H, sinh ngày 13/8/2014 hiện cháu đang sống với chị. Nay chị yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu anh Th phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có nên yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo tờ tự khai không đề ngày tháng năm, trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Trần Hoàng Th trình bày:

Do quen biết nên chị và anh Th xác lập quan hệ vợ chồng cưới nhau vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T vào ngày 31/05/2014. Vợ chồng sống hạnh phúc đến từ đó cho đến nay không có phát sinh mâu thuẫn gì. Trong thời gian giản cách xã hội chị T tự ý dẫn con về nhà cha mẹ ruột sinh sống không rõ lý do. Anh xác định còn thương vợ, con mong muốn được hàn gắn đoàn tụ nên anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Kiều T.

Về con chung: Anh thống nhất với phần trình bày của chị T trong thời kỳ hôn nhân anh chị có 01 con chung tên Trần Đức H, sinh ngày 13/8/2014, hiện cháu đang sống với chị T.

Nay anh yêu cầu được nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Trần Hoàng Th vắng mặt không lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa: Về tố tụng: Việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử và của các đương sự chấp hành đúng qui định của pháp luật tố tụng dân sự. Hiện tại thì chưa phát hiện sai sót gì để kiến nghị khắc phục. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị T, cho chị T được ly hôn anh Th; Giao con chung cho chị T nuôi, anh Th không phải cấp dưỡng nuôi con vì chị T không yêu cầu; Về tài sản chung và nợ chung: không có nên không cần đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Anh Trần Hoàng Th vắng mặt không rõ lý do mặc dù đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Căn cứ theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh Th.

Về nội dung:

[2] Về quan hệ hôn nhân: Tại phiên tòa, chị T và anh Th đều trình bày thống nhất là anh chị xác lập quan hệ vợ chồng cưới nhau vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T vào ngày 31/5/2014. Tuy nhiên, chị T cho rằng vợ chồng chỉ sống hạnh phúc một thời gian ngắn thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do anh chị không hợp tính tình, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Th có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác ở bên ngoài, không quan tâm chăm sóc vợ con từ đó dẫn đến cuộc sống chung của vợ chồng không hạnh phúc, chị đã cho anh Th nhiều cơ hội để hàn gắn tình cảm nhưng không được. Anh Th cho rằng vợ chồng không có xảy ra mâu thuẫn; trong thời gian giản cách xã hội chị T tự ý dẫn con về nhà cha mẹ ruột sinh sống không rõ lý do và anh không đồng ý ly hôn. Xét thấy, cho chị T được ly hôn anh Th là có cơ sở để chấp nhận. Bởi lẽ, trong thời gian ly thân, trong buổi hòa giải, anh Th không đưa ra được bất kỳ giải pháp nào thiết thực, thuyết phục chị T để vợ chồng hàn gắn, sắp xếp mâu thuẫn gia đình dung hòa cuộc sống chung trong khi đó bản thân chị T đã xác định không còn tình cảm với anh Th, không muốn đoàn tụ với anh Th nên không có biện pháp nào để vợ chồng sum họp được. Mặt khác, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật mà anh Th vắng mặt tại phiên toà không rõ lý do thể hiện anh không còn quan tâm đến cuộc sống hôn nhân giữa anh và chị T. Từ các phân tích trên xác định cuộc sống hôn nhân của anh chị đã thật sự đổ vỡ, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Cho nên, chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị T là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Tại phiên tòa, chị T trình bày có 01 con chung tên Trần Đức H, sinh ngày 13/8/2014, hiện đang sống với chị T và chị yêu cầu được nuôi dưỡng con chung. Trong quá trình giải quyết vụ án anh Th cho rằng con chung cũng đang sống cùng chị T và anh mong muốn được nuôi con chung nhưng anh không đến tham dự các phiên tòa và cũng không đưa ra các chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của anh. Xét thấy, tiếp tục giao con chung cho chị T nuôi là có cơ sở để chấp nhận. Bởi lẽ, trước giờ cháu Đức H đã sống ổn định với chị từ khi vợ chồng ly thân đến nay. Bên cạnh đó, bản thân cháu Đức H có nguyện vọng được sống với mẹ khi cha mẹ ly hôn. Từ đó, để đảm bảo quyền lợi của con chung cũng như tránh xáo trộn về mặt tâm sinh lý, đời sống sinh hoạt của cháu Đức H nên giao cho chị T được nuôi dưỡng con chung là có căn cứ, phù hợp quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị T không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét là có căn cứ.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Tại Tòa, chị trình bày không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, anh Toàn phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

[7] Xét ý kiến phát biểu của vị đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 227, Điều 228, Điều 147, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử: 

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Kiều T. Cho chị Nguyễn Thị Kiều T được ly hôn với anh Trần Hoàng Th.

Về con chung: Giao một con chung tên Trần Đức H, sinh ngày 13/8/2014 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Trần Hoàng Th không phải cấp dưỡng nuôi con do chị T không có yêu cầu.

Sau khi ly hôn, anh Th có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chị đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí theo các biên lai số 0001059 ngày 17/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C nên chị đã thi hành xong phần án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Chị T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Giang xét xử phúc thẩm. Đối với anh Th có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Giang xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con số 130/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:130/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về