Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 703/2022/DS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 703/2022/DS-PT NGÀY 29/09/2022 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ YÊU CẦU HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong các ngày 26/9/2022 và 29/9/2022, tại trụ sở Tòa án nhân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 271/2022/TLTP-DS ngày 14 tháng 7 năm 2022 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2022/DS-ST ngày 05 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1840A/2022/QĐ-PT ngày 30 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Mai Thị U, sinh năm 1954 (có mặt) Địa chỉ: Số 97, ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

- Bị đơn: Ông Mai Thanh N, sinh năm 1949 (có mặt) Địa chỉ: Số 99, ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/Bà Trương Thị T, sinh năm 1950 (vắng mặt) Địa chỉ: Số 99, ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

2/Bà Mai Thị P, sinh năm 1975 (vắng mặt) Địa chỉ: Số 99 ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

3/Bà Mai Thị T2, sinh năm 1976 (vắng mặt) Địa chỉ: Số 99, ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

4/Ông Mai Văn H1, sinh năm 1981 (có mặt) Địa chỉ: Số 99, ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

5/Ông Mai Văn H2, sinh năm 1985 (vắng mặt) Địa chỉ: Số 99, ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo ủy quyền của bà Trương Thị T, Mai Thị P, Mai Thị T2, Mai Văn H1, Mai Văn H2: Ông Mai Văn Đ1, sinh năm 1971 (có mặt) Địa chỉ: Số 98 ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

6/Ông Trần Văn D2, sinh năm 1974 (có mặt) Địa chỉ: Số 97, ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

7/Bà Ngô Thị Mỹ T3 (Ngô Mỹ S) (vắng mặt) Địa chỉ: Số 97, ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

8/Bà Trần Thị Bích C1 (Trần Thị Bích T4), sinh năm 1992 (vắng mặt) Địa chỉ: Số 97, ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo ủy quyền của bà T3 và bà C1: Ông Trần Văn D2 (có mặt) Địa chỉ: Số 97, ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

9/Ủy ban nhân dân thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Sơn Ngọc T5, Phó Chủ tịch UBND thị xã V. (xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: số 01 đường 30/4, khóm x1, phường x1, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

- Người kháng cáo: Bị đơn ông Mai Thanh N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 29/3/2017 của nguyên đơn bà Mai Thị U trình bày như sau:

Cha, mẹ của bà Mai Thị U là cụ Mai Văn L6 và cụ Võ Thị C3 (đều đã qua đời), cha mẹ của bà có tất cả 05 người con gồm: Mai Văn T6 (chết), Mai Thị H3, Mai Thị H4, Mai Thanh N, Mai Thị U. Trước khi qua đời, cha mẹ bà đã chia đất cho các con, trong đó bà Mai Thị U được chia diện tích 41.203m2 gồm 02 thửa (thửa số 19, tờ bản đồ số 02, diện tích 5.185m2; thửa số 20, tờ bản đồ số 02, diện tích 36.018m2. Sau khi được cha, mẹ cho đất, bà đã đăng ký và được Ủy ban nhân dân huyện V (nay là thị xã V) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào ngày 14/02/1998 và gia đình bà đã canh tác từ khi được cho đất cho đến nay, trước thì làm ruộng, sau thì nuôi sú.

Giáp với đất của bà về hướng Bắc là đất của ông Mai Thanh N (anh ruột của bà), đất của ông N cũng là do cha, mẹ cho. Ranh giới đất của hai bên có bờ và có trồng cây, hiện nay bờ và cây trồng vẫn còn.

Phần đất của bà thuộc thửa số 19 là sát mé sông là đất lá, thửa số 20 liền kề để nuôi tôm và cất nhà ở. Do nuôi tôm nên bà có đào một mương nước trên một phần thửa 20 chạy dài hết thửa 19 để thoát ra sông (với chiều dài cạnh kéo từ kênh vào một phần thửa số 20 là 127m, chiều ngang con kênh là 08m, diện tích con kênh 1.016m2). Bà U đã sử dụng đất nuôi tôm để nuôi cha mẹ từ khi cha mẹ còn sống.

Vị trí và số đo tứ cận của con mương: Đông giáp kênh thủy lợi có số đo 08m; Tây giáp thửa số 20 của bà U có số đo 08m; Nam giáp thửa 30 của bà U và một phần thửa số 31 của ông Mai Văn T6, có số đo 127m; Bắc giáp thửa 20 và 19 của bà Mai Thị U có số đo 127m.

Khi cha của bà U còn sống thì bà U có cho ông N mượn một phần đất lá ở cặp mé sông trở vô (từ thửa 19 trở vô thửa 20), chiều dài khoảng 127m, chiều ngang khoảng 71,08m để ông N canh tác, còn đường nước của bà (phía nam giáp ranh đất của ông Mai Văn T6) thì bà vẫn tiếp tục sử dụng từ khi cha mẹ bà còn sống cho đến năm 2013 thì ông N cất nhà ở cặp đường nước của bà cho đến nay, nghĩ tình anh em nên bà tiếp tục cho ông N mượn đất để canh tác và để ở.

Nhưng khi đường mương nước của bà bị cạn, bà cho xe cuốc ủi xuống nạo vét lại cho thông thì ông N ngăn cản không cho xe vào nạo vét mương nên xảy ra tranh chấp, ông N chỉ cho người đi qua chứ không cho xe cơ giới vào đất của bà để nạo vét, chị em trong gia đình đã đến khuyên can ông N nhưng ông N không nghe. Do quá bức xúc vì nếu không có đường nước thì gia đình bà không thể nuôi tôm được nên bà đã yêu cầu chính quyền địa phương hòa giải nhưng không thành.

Nay nguyên đơn bà Mai Thị U yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông Mai Thanh N trả lại cho bà Mai Thị U con mương nước diện tích khoảng 1.016m2, tọa lạc tại ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng nằm trong thửa số 19 và một phần thửa 20, do bà U đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phần đất có vị trí và tứ cận: Đông giáp kênh thủy lợi có số đo 08m; Tây giáp thửa số 20 của bà U có số đo 08m; Nam giáp thửa 30 của bà U và một phần thửa số 31 của ông Mai Văn T6, có số đo 127m; Bắc giáp thửa 20 và 19 của bà Mai Thị U có số đo 127m.

Theo đơn yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đề ngày 05/5/2017, bị đơn ông Mai Thanh N trình bày: Phần đất có diện tích 10.026,8m2 tọa lạc tại ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng nằm trong thửa số 19 và một phần thửa 20, tờ bản đồ số 02 (nay thuộc thửa số 167, tờ bản đồ số 03) là của cha mẹ chia cho ông Mai Thanh N trước năm 1975. Đến năm 1978 bà Mai Thị U thôi chồng, bỏ về nhà sống cùng cha, mẹ của ông và ông nên ông có cắt cho bà U khoảng trên 02ha đất trong đó có cái mương nước chiều ngang khoảng 04m, chạy dài đến mé sông, nhưng nay bà U đòi mở rộng đường mương lấn vào đất của ông, ông không đồng ý nên xảy ra tranh chấp. Đến khi Ủy ban nhân dân xã L giải quyết thì ông mới biết bà U đã đăng ký quyền sử dụng đất trên diện tích đất ông đã cất nhà ở từ khi được cha mẹ chia đất cho đến nay.

Nay bị đơn ông Mai Thanh N yêu cầu Tòa án giải quyết: Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do bà Mai Thị U đứng tên để cắt trả cho ông diện tích đất 10.026,8m2 tọa lạc tại ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng nằm trong thửa số 19 và một phần thửa 20, tờ bản đồ số 02 (nay thuộc thửa số 167, tờ bản đồ số 03) để ông được đăng ký quyền sử dụng đất theo quy định, phần đất có vị trí và số đo tứ cận: Hướng Đông giáp sông Lạc Hòa có số đo 75,83m; hướng Tây giáp thửa 166 của bà Mai Thị U có số đo 74,70m; hướng Nam giáp thửa 176 của Mai Thanh N có số đo 60,55m và thửa 178 của ông Mai Văn Bồi có số đo 68,60m; hướng Bắc giáp thửa 160 của ông Mai Văn H1 có số đo 140,44m.

Tại Văn bản số 1590/UBND-VP ngày 13/9/2017 của người đại diện theo ủy quyền của UBND thị xã V trình bày như sau:

Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0088/QSDĐ/58070908 ngày 14/02/1998 cho bà Mai Thị U ngụ số 97, ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng là thời điểm cấp đại trà. Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thị xã (nay là chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai) được thành lập năm 2008, những hồ sơ đăng ký quyền sử dụng đất được cấp trước thời điểm đều do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh quản lý. Vì vậy xác định về trình tự, thủ tục và căn cứ pháp lý cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Mai Thị U thì Ủy ban nhân dân thị xã V không có cơ sở để cung cấp.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan các ông bà Trương Thị T, Mai Thị Phương Mai Thị T2, Mai Văn H1, Mai Văn H2 có người đại diện hợp pháp là ông Mai Văn Đ1 trình bày: Đề nghị Tòa án giải quyết chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Mai Thanh N.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn D2 - đồng thời là người đại diện hợp pháp của bà Ngô Thị Mỹ T3 (Ngô Mỹ S), chị Trần Thị Bích C1 (Trần Thị Bích T4) trình bày: Đề nghị Tòa án giải quyết chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Mai Thị U.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2018/DS-ST ngày 19 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã quyết định:

1/ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Mai Thị U, buộc ông Mai Thanh N trảcho bà Mai Thị U đường mương nước diện tích 768m2, thuộc một phần thửa đất số 19, 20, tờ bản đồ số 02 tọa lạc ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng. Phần đất có số đo tứ cận như sau:

+ Hướng Đông giáp Kênh số đo là 06m;

+ Hướng Tây giáp phần đất bà Mai Thị Usố đo là 06m;

+ Hướng Nam giáp thửa đất số 30, 31 số đo là 54,62m + 73,20m;

+ Hướng Bắc giáp thửa đất số 19, 20 do ông Mai Thanh N sử dụng số đo là 57,14m + 71,04m;

Các cây trồng tạp trên đường mương nước diện tích 768m2 tiếp tục giao cho bà Mai Thị U sử dụng. Ngoài diện tích trên, phần lá dừa nước tự mọc trên phần đất ông Mai Thanh Nsử dụng thì bà Mai Thị Ucó nghĩa vụ tự chặt di dời đi nơi khác.

Buộc bà Mai Thị U trả giá trị quyền sử dụng đất cho bị đơn ông Mai Thanh N diện tích 384m2 x 40.000 đồng/m2 với số tiền 15.360.000 đồng.

Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Mai Thị U, về việc yêu cầu ông Mai Thanh N cho bà Mai Thị U mở rộng thêm đường mương nước phần diện tích 281,59m2, thuộc một phần thửa đất số 19, 20, tờ bản đồ số 02 tọa lạc ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng.

2/ Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn ông Mai Thanh N, hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 0088/QSDĐ/58070908 ngày 14/02/1998 do Ủy ban nhân dân huyện V (nay là Ủy ban nhân dân thị xã V) cấp cho hộ bà Mai Thị Uđối với diện tích đất qua đo đạc thực tế là 9.192,74m2 thửa đất số 19, 20, tờ bản đồ số 02, tọa lạc ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng. Phần đất có số đo tứ cận như sau:

+ Hướng Đông giáp Kênh số đo là 72,02m +01m;

+ Hướng Tây giáp phần đất bà Mai Thị U sử dụng số đo là 67,96m + 01m;

+ Hướng Nam giáp đường nước bà Mai Thị U sử dụng số đo là 57,14m + 71,04m;

+ Hướng Bắc giáp thửa đất số 06, 07 số đo là 79,20m + 52,32m; (Các phần đất có Sơ đồ hiện trạng thửa đất kèm theo).

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, ông Mai Thanh N được liên hệ cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sử dụng đất đối với diện tích 9.192,74m2đất đang sử dụng trên theo quy định của pháp luật.

Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 645/2020/DS-PT ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 38/2018/DS-ST ngày 19 tháng 7 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” giữa các đương sự:

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 26/2022/DS-ST ngày 05 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã quyết định:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Mai Thị U về việc buộc ông Mai Thanh N trả cho bà Mai Thị U đường mương nước khoảng 1.016m2, tọa lạc tại ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng nằm trong thửa số 19 và một phần thửa 20, do bà U đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phần đất có vị trí và tứ cận: Đông giáp kênh thủy lợi có số đo 08m; Tây giáp thửa số 20 của bà U có số đo 08m; Nam giáp thửa 30 của bà U và một phần thửa số 31 của ông Mai Văn T6, có số đo 127m; Bắc giáp thửa 20 và 19 của bà Mai Thị U có số đo 127m.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu của bị đơn ông Mai Thanh N, hủy một phần Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ 0088/QSDĐ/58070908 ngày 14/02/1998 do Ủy ban nhân dân huyện V (nay là Ủy ban nhân dân thị xã V) cấp cho hộ bà Mai Thị U đối với diện tích đất qua đo đạc thực tế là 9.064,6m2 + 639,8m2 thửa đất số 19, 20, tờ bản đồ số 02, tọa lạc ấp Tân Thới, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng, gồm 2 phần có số đo các cạnh như sau:

- Phần thứ 1:

+ Hướng Đông giáp Kênh số đo là 72,02m;

+ Hướng Tây giáp phần đất bà Mai Thị U sử dụng số đó là 67,96m;

+ Hướng Nam giáp đường mương nước bà Mai Thị U sử dụng số đó là 57,14m + 71,04m;

+ Hướng Bắc giáp thửa đất số 06, 07 số đo là 79,20m + 52,32m;

Diện tích: 9.064,6m2; trong đó, có 157,6m2 diện tích lộ đal nằm trong thửa 19 nêu trên.

- Phần thứ 2:

+ Hướng Đông giáp kênh, có số đo 5m;

+ Hướng Tây giáp phần đất do bà Mai Thị U sử dụng, số số đo 5m;

+ Hướng Nam Giáp thửa 31 và thửa 30 có số đo 73,20m + 12,84m + 2,01m + 39,59m;

+ Hướng Bắc giáp phần còn lại của thửa 20 và thửa 19 (mương nước), có số đo 71,9m + 14,55m + 2,01m + 39,59m.

Diện tích: 639,8m2; trong đó, có 9,7m2 diện tích lộ đal nằm trong thửa 19. (Sơ đồ hiện trạng thửa đất kèm theo).

3. Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn ông Mai Thanh N giao cho nguyên đơn bà Mai Thị U phần đất đường mương nước có diện tích 384,1m2, thuộc một phần thửa đất số 19, 20, tờ bản đồ số 02 tọa lạc ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng. Phần đất có số đo tứ cận như sau:

+ Hướng Đông giáp Kênh số đo là 03m;

+ Hướng Tây giáp phần đất bà Mai Thị U số đo là 03m;

+ Hướng Nam giáp phần còn lại của thửa 19 và thửa 20, có số đo 71,9m + 14,55m + 2,01m + 39,59m;

+ Hướng Bắc giáp phần còn lại của thửa 19 và thửa 20, có số đo 71,04m + 15,61m + 2,01m + 39,48m.

Diện tích: 384,1m2; trong đó có 6m2 diện tích lộ đal nằm trong thửa 19.

Các cây trồng tạp trên đường mương nước diện tích 384,1m2 tiếp tục giao cho bà Mai Thị U sử dụng.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, ông Mai Thanh N được liên hệ cơ quan có thẩm quyền đăng ký quyền sử dụng đất đối với diện tích 9.064,6m2 + 639,8m2 đất đang sử dụng trên theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, chi phí định giá, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 20/5/2022 bị đơn ông Mai Thanh N đồng ý với tất cả nội dung của bản án sơ thẩm, chỉ kháng cáo một phần bản án sơ thẩm đối với nội dung tại mục 3 phần quyết định, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm theo hướng: Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn ông Mai Thanh N giao cho nguyên đơn bà Mai Thị U sử dụng chung phần đất đường mương nước có diện tích 384,1m2, thuộc một phần thửa đất số 19, 20, tờ bản đồ số 02 tọa lạc ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng nhưng không tách quyền sử dụng cho bà U.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử sửa một phần bản án sơ thẩm đối với phần đường mương là hai bên cùng sử dụng chung. Nguyên đơn không đồng ý yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm, vì việc sử dụng chung đường mương nước là không thực hiện được do hai bên thường xuyên bất hòa, gây gỗ với nhau.

Trong phần tranh luận:

Ông Đ trình bày: Theo quyết định của bản án sơ thẩm lần 1 là buộc ông N nhường cho đường nước cho bà U, và bà U trả lại giá trị cho ông N, bị đơn kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại. Sau khi bản án phúc thẩm lần 1 hủy bản án sơ thẩm giải quyết lại, Tòa án cấp sơ thẩm đã có thẩm định lại phần đất này. Theo kết quả xác minh của Uỷ ban nhân dân xã thì nguồn gốc đất là do ông N quản lý, sử dụng. Ông N chỉ đồng ý cho bà U sử dụng chung đường mương, và phần đường mương vẫn nằm trong diện tích đất ông N được công nhận quyền sử dụng, nhưng bản án sơ thẩm đã trừ phần diện tích đường mương, chỉ công nhận cho ông N quyền sử dụng đất đối với 2 phần đất, diện tích hơn 9.000m2 là không đúng. Do đó, ông N kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm công nhận phần đường mương nước cho ông N, và chỉ cho bà U sử dụng chung chứ không cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà U.

Bà U trình bày: Bà đã đồng ý giao phần đất cho ông N, chỉ yêu cầu nhận đường mương và đường đi để sinh sống vì thực tế đường mương nước này bà sử dụng sinh sống từ trước đến nay, nên không đồng ý yêu cầu kháng cáo của bị đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử phúc thẩm đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng. Các đương sự đã thực hiện quyền, nghĩa vụ theo đúng quy định của pháp luật;

Về nội dung: Trong quá trình giải quyết vụ án, ông N đồng ý giao cho bà U phần đất chiều ngang 3m. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông N xác định cho bà U phần đường nước ngang 3m, dài dọc theo kênh. Đây là sự tự nguyện của ông N, bản án sơ thẩm ghi nhận là có căn cứ. Ông N kháng cáo cho rằng chỉ đồng ý cho bà U sử dụng chung đường nước là không có căn cứ chấp nhận. Do bà U không kháng cáo yêu cầu đường đi nên không có cơ sở xem xét, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Phần đất có diện tích 41.203m2 gồm 02 thửa 19 và 20 tại ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng là của cụ Mai Văn L6 và cụ Võ Thị C3. Sau khi cụ L6, cụ C3 mất, ngày 14/02/1998 Uỷ ban nhân dân huyện V (nay là thị xã V) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Mai Thị U. Quá trình sử dụng, bà U đã đào một con mương nước trên phần thửa 20 chạy dài hết thửa 19 để thoát ra sông. Bà U cho rằng có cho ông Mai Thanh N mượn một phần đất để cất nhà ở cặp đường nước nhưng ông N không cho bà nạo vét đường mương, nên ngày 29/3/2017 bà có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc ông N trả lại cho bà U con mương nước diện tích khoảng 1.016m2.

[2] Bị đơn ông Mai Thanh N trình bày phần diện tích 10.026,8m2 nằm trong thửa 19 và một phần thửa 20 là cha mẹ đã chia cho ông. Năm 1978 ông cho bà U ở nhờ trên đất, trong đó bao gồm cả mương nước chiều ngang khoảng 4m, chiều dài đến mé sông. Do bà U muốn mở rộng mương, lấn đất của ông nên phát sinh tranh chấp. Ông N không đồng ý yêu cầu khởi kiện, đồng thời có yêu cầu phản tố yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho bà U và trả lại cho ông phần diện tích 10.026,8m2.

[3] Quá trình giải quyết tại Tòa án, bà U chỉ tranh chấp phần đường mương, đồng ý cắt trả cho ông N phần diện tích còn lại sau khi đã trừ diện tích đường mương. Tại biên bản lấy lời khai ngày 26/5/2021 bị đơn ông N trình bày đồng ý cho bà U sử dụng đường nước ngang 3m, chiều dài đến kênh là 127m, còn 3m còn lại thì ông không đồng ý.

[4] Bản án sơ thẩm nhận định:

Tại kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 21/10/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, đã thể hiện: Phần đất mương nước do bị đơn chỉ ranh có tứ cận như sau: Hướng đông giáp kênh có số đo 4,14m; hướng tây: giáp phần còn lại của thửa 20, có số đo 4,53m; hướng bắc: giáp phần còn lại của thửa 19 và thửa 20, có số đo 127,98m; hướng bắc: giáp phần còn lại của thửa 19 và thửa 20, có số đo 128,17m. Phần đất thuộc một phần thửa 20 và toàn bộ thửa 19 do ông N quản lý, sử dụng với tổng diện tích qua đo đạc thực tế là 10.088,5m2, trong đó bao gồm luôn đã phần đất mương nước mà bà U sử dụng đề dung làm đường cấp, thoát nước để nuôi tôm Nguyên đơn cho rằng, phần đường nước có chiều ngang 8m đã được cha mẹ bà cho bà sử dụng từ trước, do đó yêu cầu bị đơn giao trả phần đường nước này cho bà. Tuy nhiêu, nguyên đơn không đưa ra được chứng cứ chứng minh cha mẹ nguyên đơn cho tặng phần đất đường nước có chiều ngang 8m nêu trên; mặt khác hiện trạng đường nước chiều ngang đầu mương giáp với thửa 20 là 4,53m và chiều ngang mương giáp với kênh là 4,14m.

Tại Biên bản lấy lời khai của bà ai Thị Huê, bà Mai Thị H4 và bà Nguyễn Thị N8, ông Phạm H9 đều cho rằng mương nước này đã có trước khi xảy ra tranh chấp do bà U sử dụng để dẫn nước từ kênh vào ao nuôi tôm của bà U ở phía sau đất ông N, đến khi bà U cho xe cuốc vào mở rộng con mương này thì mới phát sinh tranh chấp, do ông N không đồng ý (BL từ 112 đến 115; 181, 182;

186, 187). Trong khi đó, phần đất thuộc một phần thửa 20 và thửa 19 đã được bị đơn quản lý, sử dụng từ trước cho đến nay. Từ lý do này, mà nguyên đơn đã đồng ý tách một phần diện tích đất thuộc một phần thửa 20 và thửa 19 nêu trên cho bị đơn như đã nêu ở phần trên.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ trên có cơ sở xác định phần đất thuộc một phần thửa 20 và thửa 19 đã được bị đơn quản lý, sử dụng từ trước cho đến khi phát sinh tranh chấp giữa các bên, do nguyên đơn muốn mở rộng đường mương nước, mà bị đơn không đồng ý. Từ những căn cứ trên, Tòa án cấp sơ thẩm xác định toàn bộ diện tích đất 10.088,5m2 thuộc một phần thửa 20 và thửa 19 là thuộc quyền sử dụng hợp pháp của bị đơn, nhưng đã bị Uỷ ban nhân dân huyện V (nay là thị xã) cấp cho hộ của nguyên đơn.

Trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn đồng ý giao cho nguyên đơn phần đất đường nước có chiều ngang 3m, chiều dài khoảng 128m, được tính từ phần đất của nguyên đơn đang sử dụng thuộc phần còn lại của thửa 20 chạy dài đến kênh. Xét thấy, đây là sự tự nguyện của bị đơn giao cho nguyên đơn phần đất nêu trên để làm đường dẫn nước cho nguyên đơn thuận lợi trong việc nuôi tôm. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm ghi nhận sự tự nguyện này của bị đơn, cho nguyên đơn sử dụng phần đường mương nước có diện tích 384,1m2 có vị trí như sau: Hướng đông giáp kênh có số đo 3m; hướng tây: giáp phần còn lại của thửa 20, có số đo 3m; hướng bắc: giáp phần còn lại của thửa 19 và thửa 20, có số đo 71,9m + 14,55m + 2,01m + 39,59m; hướng bắc: giáp phần còn lại của thửa 19 và thửa 20, có số đo 71,04m + 15,61m + 2,01m + 39,48m (theo sơ đồ hiện trạng thửa đất kèm theo bản án).

[5] Nhận định của Hội đồng xét xử phúc thẩm:

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn đã tự nguyện đồng ý giao cho nguyên đơn phần đường nước có chiều ngang 3m, nên phán quyết của bản án sơ thẩm là có căn cứ. Ông N kháng cáo cho rằng ông chỉ đồng ý cho bà U sử dụng chung đường mương nước với gia đình ông, không phải là giao cho gia đình bà U sử dụng riêng. Xét thấy, tại biên bản lấy lời khai ngày 26/5/2021 ông N trình bày: “Tôi chỉ đồng ý cho bà U sử dụng đường nước ngang 3m, chạy dài đến kênh 127m, còn 3m còn lại thì tôi không đồng ý.” (BL 472, 473), và tại phiên tòa sơ thẩm ông N cũng trình bày đồng ý giao cho bà U phần đường mương nước ngang 3m, chiều dài đến kênh là 128m do ông không có sử dụng đường nước này. Hơn nữa, theo sơ đồ hiện trạng thửa đất ngày 21/10/2021 của công ty Trách nhiệm hữu hạn H8 thì đường mương nước có cho chiều ngang hướng tây giáp thửa số 20 là 4,53m, chiều ngang hướng đông giáp kênh là 4,14m, trong khi đó phần đường mương nước ông N đồng ý giao cho bà U có chiều ngang 3m, vậy phần đường mương nước còn lại vẫn thuộc quyền quản lý, sử dụng của ông N.

Do đó, yêu cầu kháng cáo của ông N là không có cơ sở được chấp nhận.

Ngoài ra, Hội đồng xét xử nhận định thêm: Hồ sơ vụ án thể hiện phần đất bà U đang sử dụng nằm ở phía trong, phần đất ông N sử dụng nằm ở phía ngoài giáp kênh. Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự xác định lối đi vào phần đất bà U nằm trong phần đất ông N đang sử dụng, hiện nay bà U đi nhờ lối đi trên phần đất khác để vào phần đất. Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét vấn đề này khi giải quyết tranh chấp giữa bà U và ông N là giải quyết chưa triệt để. Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm bà U không có kháng cáo, nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu có yêu cầu giải quyết về việc mở lối đi thì bà U có quyền khởi kiện bằng vụ kiện dân sự khác.

[6] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[7] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[8] Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Mai Thanh N, sinh năm 1949 nên được miễn án phí theo quy định tại Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Mai Thanh N;

Tuyên xử:

Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 26/2022/DS-ST ngày 05/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng đối với nội dung bị kháng cáo tại mục 3 phần quyết định của bản án sơ thẩm như sau:

Ghi nhận sự tự nguyện của bị đơn ông Mai Thanh N giao cho nguyên đơn bà Mai Thị U phần đất đường mương nước có diện tích 384,1m2, thuộc một phần thửa đất số 19, 20, tờ bản đồ số 02 tọa lạc ấp T, xã L, thị xã V, tỉnh Sóc Trăng. Phần đất có số đo tứ cận như sau:

+ Hướng Đông giáp Kênh số đo là 03m;

+ Hướng Tây giáp phần đất bà Mai Thị U số đo là 03m;

+ Hướng Nam giáp phần còn lại của thửa 19 và thửa 20, có số đo 71,9m + 14,55m + 2,01m + 39,59m;

+ Hướng Bắc giáp phần còn lại của thửa 19 và thửa 20, có số đo 71,04m + 15,61m + 2,01m + 39,48m.

Diện tích: 384,1m2; trong đó có 6m2 diện tích lộ đal nằm trong thửa 19.

Các cây trồng tạp trên đường mương nước diện tích 384,1m2 tiếp tục giao cho bà Mai Thị U sử dụng (Theo sơ đồ hiện trạng thửa đất kèm theo bản án).

2. Các phần nội dung quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Mai Thanh N được miễn.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

59
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 703/2022/DS-PT

Số hiệu:703/2022/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về