Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 84/2019/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 84/2019/DS-ST NGÀY 26/12/2019 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 26 tháng 12 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 555/2017/TLST-DS ngày 19 tháng 12 năm 2017 về “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2019/QĐXXST-DS ngày 30 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Ngọc D, sinh năm 1980;

Địa chỉ: Ấp A, xã A K, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.

Bị đơn: Chị Trần T T, sinh năm 1974;

Địa chỉ: Ấp T A, xã T Đ, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Trần V C, sinh năm 1950;

Địa chỉ: Ấp A, xã A K, huyện Châu Thành, tình Đồng Tháp.

2. Anh Võ V L, sinh năm 1971.

Địa chỉ: Ấp T A, xã T Đ, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.

3. Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Phạm T X, Chủ tịch UBND huyện Châu Thành.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Ngọc D trình bày:

Chị D đi xuất khẩu lao động tại Đài Loan vào năm 2004, nhiều lần gửi tiền về cho chị T lo gia đình vì lúc này ở nhà có cha già, con Chị D là Đoàn Thị D M do chị T chăm sóc. Năm 2006 Chị D gửi 2.500 USD để nhờ chị Trần T T mua đất, khi về Việt Nam cất nhà ở. Sau đó chị T có mua của ông Mai Văn Đ, sinh năm 1941, địa chỉ ấp T A, xã T Đ, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp diện tích khoảng 2.000m2 đất. Lúc này, Chị D đang ở nước ngòai nên có nhờ chị T đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chị D xác định khoảng tiền 2.500USD là tiền nhờ chị T mua đất dùm, ngoài ra hàng tháng chị có gửi tiền để chị T ăn uống, chi phí nuôi con Chị D là Đòan Thị D M và gia đình. Việc gửi tiền có chứng từ của ngân hàng. Thời gian gửi tiền từ năm 2004 – 2006.

Năm 2015 khi về Việt Nam, chị T có kêu Chị D về cất nhà ở trên phần đất hiện chị T đang đứng tên. Chị D có cất căn nhà sát nhà chị T nhưng trong quá trình sinh sống có mâu thuẫn nên Chị D không ở nữa mà ra khu công Nghiệp A thuê nhà trọ ở từ đó đến nay. Khi đi thì Chị D có nhận số tiền 40.000.000 đồng từ chị T để giao toàn bộ căn nhà cho chị T quản lý, sử dụng, số tiền này Chị D đã nhận xong.

Trước đây, khi khởi kiện Chị D yêu cầu chị T trả lại 1.000m2 đất nhưng do phần đất cắt ngang nhà chị T nên Chị D thay đổi yêu cầu, chỉ đòi lại diện tích sau khi điều chỉnh lại sơ đồ là 750m2 tránh căn nhà của chị T. Nay Chị D yêu cầu chị Trần T T trả lại diện tích 750m2 thuộc một phần thửa 373, tờ bản đồ số 8, diện tích 1.861m2 đất tọa lạc tại ấp T A, xã T Đ, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp và yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do chị Trần T T đang đứng tên.

Theo bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải và tại phiên tòa bị đơn chị Trần T T trình bày:

Chị Trần T T xác định nguồn gốc đất hiện nay Chị D đang tranh chấp là của ông Mai Văn Đ ngụ ấp T A, xã T Đ, huyện Châu Thành, Đồng Tháp. Vào năm 2006, chị có nhận chuyển nhượng đất của ông Đô diện tích 1.800m2 đất với giá 50.000.000 đồng, đến ngày 28/3/2007 chị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Số tiền chuyển nhượng đất của ông Đô là tiền dành dụm và một phần do D gửi về cho chị là 2.500USD, vì lúc đó do chị chưa đủ tiền nên đã xin D thêm một số tiền để mua đất. Khi gửi 2.500USD thì D hoàn toàn không có nói gửi số tiền này để nhờ chị mua đất dùm cho D.

Trên phần đất có căn nhà của chị T, diện tích ngang 5m, dài 10m, được cất vào năm 2009 nền lót gạch tàu, khung gỗ, đòn tay gỗ, vách tole.

Năm 2015 khi D về nước do không có chỗ ở nên chị kêu D về ở trên phần đất, lúc đó D đã cất một căn nhà diện tích 5,3m, dài 8,6m khung gỗ mái tole kẽm. Trong quá trình chung sống, do mâu thuẫn nên D không ở nữa và yêu cầu chị trả giá trị căn nhà mà D xây cất là 40.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền xong, D đã giao căn nhà này cho chị quản lý sử dụng. Trên phần đất có các loại cây trồng gồm Sầu riêng, Nhãn, Dừa, Ổi, Mãn cầu… do chị T, anh L trồng.

Ngoài khoản tiền 2.500USD mà Chị D gửi về cho chị thì D còn gửi thêm các khoản tiền khác dùng vào việc chi tiêu gia đình vì lúc này con của D đang gửi cho chị T chăm sóc.

Nay, chị Trần Ngọc D yêu cầu chị T trả lại 750m2 đất thuộc một phần thửa 373, tờ bản đồ số 8, diện tích 1.861m2 đất tọa lạc tại ấp T A, xã T Đ, huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp do chị T đứng tên quyền sử dụng đất thì chị không đồng ý. Tuy nhiên, lúc khó khăn D đã giúp đỡ chị, nay kinh tế gia đình chị đã khá hơn nên chị tự nguyện cho lại D 50.000.000 đồng (tương ứng 2.500USD) mà D đã cho chị trước đây.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Võ V L có ý kiến trình bày:

anh L cho rằng tiền D gửi về cho chị T là chi phí dùng vào việc chăm sóc con của D là cháu Đoàn Thị D M, tiền mua đất do vợ anh dành dụm nhiều năm lao động mới có được. Nên việc Chị D khởi kiện đòi lại đất là không đúng.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần V C có đơn xin xét xử vắng mặt nên không có ý kiến trình bày:

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện Châu Thành có đơn xin vắng mặt nên không có ý kiến trình bày:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu quan điểm về tuân thủ pháp luật tố tụng và nội dung giải quyết vụ án:

- Về tuân thủ pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến tại phiên tòa Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự.

- Về hướng giải quyết vụ án:

Chị D yêu cầu chị T trả lại diện tích 750m2 và hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Còn chị T không đồng ý theo yêu cầu của Chị D.

Xét yêu cầu của Chị D là có căn cứ vì chị T thừa nhận có nhận 2.500USD của Chị D và dùng một phần tiền này để mua đất. Theo Công văn của Phòng Tài chính kế hoạch huyện Châu Thành cung cấp tỷ giá đô la tại thời điểm năm 2005 là 1USD = 15.890đ, như vậy 2.500USD = 39.725.000 đồng. Qua đó, cho thấy yêu cầu của Chị D là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Theo đơn khởi kiện ngày 16/11/2017 Chị D yêu cầu chị Trần T T trả lại 1.000m2 đất thuộc thửa 373, tờ bản đồ số 8, diện tích 1.861,0m2 nên Tòa án xác định quan hệ pháp luật cần giải quyết là “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự và chị T đang cư trú tại ấp A, xã A K, huyện Châu Thành, Đồng Tháp nên Tòa án nhân dân huyện Châu Thành có thẩm quyền giải quyết.

[1.2] Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt họ.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Xét việc chị Trần Ngọc D yêu cầu chị Trần T T trả lại diện tích 750m2 thuộc một phần thửa 373, tờ bản đồ số 8, diện tích 1.861,0m2, do chị T đứng tên quyền sử dụng, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:

Chị D cho rằng khi còn lao động ở Đài Loan đã gửi 2.500USD cho chị T để nhờ mua 2.000m2 đất, khi nào về nước thì có chỗ ở nhưng chị T lại không thừa nhận việc này. Đồng thời, khi Chị D gửi tiền về cho chị T thì trong các phiếu gửi tiền tại Ngân hàng cũng không thể hiện bất cứ nội dung nào liên quan đến việc Chị D gửi tiền để nhờ chị T mua đất.

Qua biên bản tiếp xúc ông Huỳnh Văn K và ông Trần Văn N của UBND xã T Đ về việc xác định tình trạng kinh tế, điều kiện sống của chị Trần T T thể hiện: Bà T thời điểm năm 2005 – 2006 sinh sống bằng nghề may và bán tiệm tạm hóa nhỏ, chỉ đủ sống cho bản thân qua ngày, không đủ tích lũy để mua được các bất động sản cũng như tài sản khác. Tuy nhiên việc này cũng không thể chứng minh được việc Chị D gửi 2.500USD để nhờ chị T mua đất dùm vì thực tế chị T cũng thừa nhận khoản tiền mua đất là do tiền dành dụm và một phần tiền của Chị D gửi về cho chị.

Chị D cũng thừa nhận, khi xuất khẩu lao động thì có gửi tiền về cho chị T để lo cho gia đình vì lúc này ngoài chị T ở nhà thì trong gia đình những người khác như Chị D và chị Oanh đều đi xuất khẩu lao động ở Đài Loan nên chỉ có chị T ở nhà lo cho cha già, con Chị D là Đoàn Thị D M, con của chị Oanh và các em trai. Trong thời gian 3 năm từ 2004 – 2006 Chị D gửi tiền nhiều lần thông qua ngân hàng hoặc người thân, thì Chị D cũng không đưa ra được chứng cứ nào thể hiện việc Chị D gửi tiền về nhờ mua đất dùm, ngoài việc chị T dùng tiền để chi tiêu gia đình và chăm sóc con Chị D.

Nếu Chị D cho rằng việc mình gửi 2.500USD để nhờ chị T mua đất, sau khi về nước để có chỗ ở ổn định. Năm 2015 khi Chị D về nước, chị T có kêu Chị D về ở trên phần đất đang tranh chấp và có cất căn nhà, đáng lẽ lúc này Chị D phải yêu cầu chị T tách một phần diện tích 1000m2 tương đương với số tiền chị nhờ chị T mua đất, nếu chị T không đồng ý tách quyền sử dụng thì Chị D cứ ở tại căn nhà đã xây cất để xác định mình có quyền đối với phần diện tích mà chị T đang đứng tên. Tuy nhiên, khi cất nhà ở được vài tháng thì Chị D không tiếp tục ở nữa mà chủ động kêu chị T đưa cho chị số tiền 40.000.000 phần giá trị căn nhà của Chị D xây cất để chị đi nơi khác sinh sống và giao căn nhà này cho chị T toàn quyền sử dụng. Do đó, chị T đã giao số tiền 40.000.000 đồng và Chị D đã nhận đủ số tiền này.

Theo Chị D trình bày lúc gửi 2.500 USD để nhờ chị T mua diện tích khoảng 2.000m2 đất vườn. Tuy nhiên, theo công văn số 368/PTCKH- QLCSG ngày 18/11/2019 của Phòng Tài chính và kế hoạch huyện Châu Thành thì tỷ giá đô la tại thời điểm năm 2005 là 1USD = 15.890đ, như vậy 2.500USD = 39.725.000 đồng. Năm 2006 (lúc chị T mua đất ông Đô) là 1USD = 16.030đ như vậy 2.500USD = 40.075.000 đồng thì không thể mua đủ diện tích 2.000m2 như Chị D trình bày. Vì thực tế chị T mua phần đất diện tích 1.800m2 của ông Mai Văn Đ với giá 50.000.000 đồng tại thời điểm ngày 30/9/2006.

Qua phân tích trên cho thấy việc Chị D yêu cầu chị T trả lại diện tích 750m2 đất thuộc một phần thửa 373 hiện do chị T đứng tên quyền sử dụng và yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận cấp cho chị Trần T T là không có căn cứ chấp nhận.

Đồng thời ghi nhận việc chị T tự nguyện cho lại Chị D 50.000.000 đồng (tương đương 2.500USD) mà Chị D đã cho chị trước đây.

Do đó, việc đại diện Viện Kiểm sát chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn là không phù hợp như đã phân tích trên.

[2.2] Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ: Do yêu cầu của Chị D không được chấp nhận, nên Chị D phải chịu các chi phí tố tụng theo quy định.

[2.3] Về án phí: Chị D phải chịu án phí đối với phần diện tích đất không được chấp nhận và phần án phí đối với yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 100, Điều 203 Luật đất đai; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu của chị Trần Ngọc D về việc yêu cầu chị Trần T T trả lại diện tích 750m2 thuộc một phần thửa 373, tờ bản đồ số 8, diện tích 1.861,0m2 do Trần T T đứng tên quyền sử dụng và yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

2. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Trần T T về việc cho chị Trần Ngọc D số tiền 50.000.000 đồng.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan Chi cục thi hành án dân sự có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

3. Về chi phí đo đạc và định giá: Chị Trần Ngọc D phải chịu 3.849.000 đồng. Chị D đã tạm ứng và chi xong.

4. Về án phí: Chị D phải chịu 3.487.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 02708 ngày 19 tháng 12 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành. Chị D phải nộp tiếp 3.187.500 đồng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại khoản 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp quyền sử dụng đất số 84/2019/DS-ST

Số hiệu:84/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về