Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung số 124/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 124/2022/HNGĐ-ST NGÀY 10/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Ngày 10 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 22/2022/TLST–HNGĐ ngày 10 tháng 01 năm 2022 về việc tranh chấp “Xin Ly hôn và nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim A, sinh năm: 1993.

Địa chỉ: Ấp Q, xã N, huyện C, tỉnh T.

2. Bị đơn: Anh Trương Văn L, sinh năm: 1990. Địa chỉ: Ấp H, xã R, huyện B, tỉnh T. (Chị A, anh L có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo Đơn khởi kiện đề ngày 29/12/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim A trình bày: Chị và anh Trương Văn L xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2016 và có đăng ký kết hôn. Sau khi cưới, vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 08/2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng thường xuyên cãi vã, anh L không quan tâm đến gia đình, cuộc sống chung của vợ chồng không còn hạnh phúc và anh, chị đã tự cắt đứt quan hệ vợ chồng từ tháng 08/2017 đến nay. Nay chị yêu cầu được ly hôn với anh L.

Về con chung: Anh, chị có 01 con chung tên Trương Nguyễn Thùy D, sinh ngày 15/12/2016. Hiện con chung đang sống với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi cháu Thùy D và không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

- Theo Tờ tự khai ngày 28/02/2022 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh Trương Văn L trình bày: Về quá trình hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung anh thống nhất với trình bày của chị A. Nay anh không đồng ý ly hôn vì còn thương con. Nếu Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn, anh yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu chị A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị A vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với  anh L, yêu cầu nuôi con chung và thay đổi yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng. Bị đơn anh L vẫn giữ nguyên ý kiến như trên.

- Đại diện Viện kiểm sát tham dự phiên tòa phát biểu:

+ Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Những người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật.

+ Về việc giải quyết vụ án:

Về hôn nhân: Nhận thấy hôn nhân của chị A và anh L đã thật sự tan vỡ, do bất đồng quan điểm sống, hay cãi nhau, đời sống hôn nhân không đạt được và đã ly thân từ năm 2017 cho đến nay. Về phía anh L mặc dù không đồng ý ly hôn nhưng từ khi ly thân đến nay đã lâu anh L không đưa ra được biện pháp nào hàn gắn hạnh phúc gia đình. Từ đó, cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên yêu cầu xin ly hôn của chị A là có cơ sở để chấp nhận phù hợp với quy định tại Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Quá trình chung sống có 01 con chung là Trương Nguyễn Thùy D, sinh ngày 15/12/2016. Hiện cháu D đang sống với chị A, chị và anh L đều yêu cầu được nuôi con chung. Tại phiên tòa, chị A thay đổi khởi kiện yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng là phù hợp với quy định tại Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự nên có cơ sở chấp nhận. Xét thấy, cháu D sống với chị A ổn định từ trư c t i nay vẫn phát triển bình thường và lại là bé gái cần sự quan tâm, chăm sóc về tâm sinh lý của mẹ. Do đó, để tránh xáo trộn tâm lý con chung, nên giao cháu D cho chị A tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình. Tại phiên tòa, anh L đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng là tự nguyện nên ghi nhận.

Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn. Cho chị A ly hôn với anh L. Giao cháu D cho chị A tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của anh L về việc cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng.

+ Những yêu cầu, kiến nghị khắc phục vi phạm: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

au khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

- Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị A có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn và tranh chấp về nuôi con chung của chị và anh L theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện. Bị đơn trong vụ án có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và sinh sống tại huyện C, tỉnh T, căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh T.

- Về quan hệ tranh chấp: Chị A có đơn yêu cầu xin ly hôn với anh L và yêu cầu nuôi con chung của chị và anh L nên xác định đây là tranh chấp Ly hôn và nuôi con chung theo quy định tại các Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.

- Về việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Tại phiên tòa, nguyên đơn chị A thay đổi khởi kiện yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 244 của Bộ luật tố tụng dân sự nên chấp nhận việc thay đổi yêu cầu này của chị A.

[2]. Về nội dung vụ án:

2.1. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Nguyễn Thị Kim A và anh Trương Văn L xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2016 và có đăng ký kết hôn tại y ban nhân dân xã Hậu Thành, huyện C, tỉnh T. Sau khi cưới, vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 08/2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng thường xuyên cãi vã, anh L không quan tâm đến gia đình, cuộc sống chung của vợ chồng không còn hạnh phúc và anh, chị đã tự cắt đứt quan hệ vợ chồng từ tháng 08/2017 đến nay.

Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng anh, chị lúc mớii xảy ra không lâu, nhưng do anh, chị không giải quyết được dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Hơn nữa, anh chị cắt đứt quan hệ vợ chồng từ tháng 10/2017 đến nay nhưng anh L cũng không có biện pháp gì để tạo điều kiện vợ chồng hàn gắn. Chứng tỏ, tình cảm vợ chồng anh chị đã thật sự tan vỡ, không còn khả năng hàn gắn đoàn tụ. Xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị A là có căn cứ nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị A và cho chị Nguyễn Thị Kim A được ly hôn với anh Trương Văn L là phù hợp với Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

2.2. Về con chung:

- Chị A và anh L có 01 con chung tên Trương Nguyễn Thùy D, sinh ngày 15/12/2016. Hiện con chung đang sống với chị A. Tại phiên tòa, chị A và anh L đều có yêu cầu được nuôi con chung.

Xét thấy, con chung do chị A nuôi dưỡng từ khi anh chị cắt đứt quan hệ vợ chồng đến nay cũng đã ổn định. Đồng thời, qua xác minh tại địa phương điều kiện nuôi con của anh L khó khăn hơn chị A, anh đi làm và ở xa. Do đó, không cần xáo trộn tình cảm của con chung mà tiếp tục giao con chung cho chị A nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình và không chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của anh L.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung: Tại phiên tòa, chị A có yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng. Anh L cũng đồng ý. Xét thấy đây là quyền tự định đoạt của đương sự nên ghi nhận sự tự nguyện của anh L cấp dưỡng nuôi con cùng chị A mỗi tháng số tiền là 2.000.000 đồng.

2.3. Về tài sản chung: Không có.

2.4. Về nợ chung: Không có.

[3]. Về án phí: Chị A là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm; Anh L phải chịu án phí phần cấp dưỡng nuôi con theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

[4]. Về quyền kháng cáo: Chị A, anh L được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[5]. Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 59, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110 và Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 357 của Bộ luật dân sự.

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 244 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban thường vụ Quốc Hội.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Kim A.

- Cho chị Nguyễn Thị Kim A được ly hôn với anh Trương Văn L.

2. Về con chung:

- Chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của chị Nguyễn Thị Kim A Giao con chung tên Trương Nguyễn Thùy D, sinh ngày 15/12/2016 cho chị A tiếp tục nuôi dưỡng.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Ghi nhận sự tự nguyện của anh L cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị A mỗi tháng số tiền là 2.000.000 đồng. Thời gian cấp dưỡng nuôi con tính từ khi án có hiệu lục pháp luật đến khi con đủ 18 tuổi.

Kể từ ngày chị A có đơn yêu cầu thi hành án đối với phần tiền cấp dưỡng, nếu anh L chậm thi hành thì còn phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành tương ứng với thời gian chậm thi hành theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật Dân sự.

Sau khi ly hôn, anh L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung theo quy định pháp luật.

- Không chấp nhận yêu cầu nuôi con chung của anh Trương Văn L.

3. Về tài sản chung: Không có.

4. Về nợ chung: Không có.

5. Về án phí:

- Chị Nguyễn Thị Kim A chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001184 ngày 10/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh T nên xem như chị A đã thi hành xong phần án phí.

- Anh L chịu 300.000 đồng án phí về phần cấp dưỡng nuôi con.

6. Về quyền kháng cáo:

- Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung số 124/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:124/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về