Bản án về tranh chấp ly hôn số 687/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 687/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 11 năm 2021, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 84/2021/TLST- HNGĐ ngày 21/01/2021 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 190/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 12/5/2021; Thông báo dời phiên tòa ngày 07/6/2021; Thông báo dời phiên tòa ngày 30/6/2021; Thông báo mở lại phiên tòa ngày 10/11/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Huy H, sinh năm: 1974;

Địa chỉ: B13/22 ấp 3A, xã B, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Ông H có mặt tại phiên tòa)

2. Bị đơn: Bà Đoàn Thị Hồng Th, sinh năm: 1975;

Địa chỉ: D2/65/1 ấp 4, xã Đ, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Bà T vắng mặt và có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 20/11/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án - Nguyên đơn ông Nguyễn Huy H trình bày:

Ông và bà Đoàn Thị Hồng T bắt đầu chung sống với nhau vào năm 2002, có tổ chức đám cưới, do tự tìm hiểu và đi đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện B vào ngày 16/12/2002.

Thời gian đầu, ông và bà T chung sống hạnh phúc bình thường, không có gì xảy ra. Đến năm 2019, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do cãi nhau thường xuyên, sống không có hạnh phúc. Ông và bà T ly thân từ tháng 9 năm 2020 cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn hàn gắn được nữa nên ông yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông ly hôn với bà Đoàn Thị Hồng T.

Về con chung, ông và bà T chung sống có hai con chung tên Nguyễn Huy D, sinh ngày 08/12/1999 (đã thành niên) và Nguyễn Duy T2, sinh ngày 04/01/2004. Khi ly hôn, nguyện vọng của ông H là sẽ giao cháu T2 cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng và ông sẽ cấp dưỡng nuôi cháu T2 mỗi tháng 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng), thực hiện cấp dưỡng vào ngày 15 tây hàng tháng, bắt đầu thực hiện từ ngày 15/12/2021 cho đến khi cháu T2 thành niên.

Về tài sản chung, ông xác nhận quá trình chung sống không có tạo dựng tài sản chung.

Về nợ chung, ông xác nhận quá trình chung sống không có nợ chung.

Tại phiên tòa, ông H trình bày do hiện nay chỉ còn hơn 01 tháng nữa là cháu T2 đã thành niên nên ông sẽ cấp dưỡng một lần cho cháu T2 là 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng), thực hiện vào ngày 15/12/2021. Mặt khác, ông H cũng trình bày do vợ con của ông có khó khăn về kinh tế, không có tài sản để tự nuôi mình nên kể từ ngày 15/01/2022 ông sẽ thực hiện việc cấp dưỡng cho vợ, con đã thành niên như sau:

- Cháu T2 mỗi tháng 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng);

- Cháu D mỗi tháng 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng);

- Bà T mỗi tháng 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).

Ông sẽ thực hiện cấp dưỡng vào ngày 15 tây hàng tháng, bắt đầu thực hiện từ ngày 15/01/2022 cho đến ngày 15/01/2027.

Tại bản tự khai ngày 13/4/2021, bị đơn bà Đoàn Thị Hồng T trình bày:

Bà và ông Nguyễn Huy H sống chung từ năm 1998, do tự quen biết và có tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H. Vợ chồng sống chung hạnh phúc, tuy có cãi vã nhưng không có mâu thuẫn lớn. Vợ chồng bà vẫn sinh hoạt bình thường, không có ly thân. Do đó, bà không đồng ý ly hôn với ông Nguyễn Huy H.

Về con chung, bà và ông H chung sống có hai con chung tên Nguyễn Huy D, sinh ngày 08/12/1999 (đã trưởng thành) và Nguyễn Duy T2, sinh ngày 04/01/2004. Hiện cháu T2 đang ở với vợ chồng bà. Bà không muốn ly hôn nên không muốn giải quyết về vấn đề con chung.

Về tài sản chung và nợ chung thì bà xác nhận không có.

Ông H vẫn lo kinh tế gia đình, lo cho vợ con nên bà đề nghị Tòa án bác đơn ly hôn của ông H để cho vợ chồng bà được đoàn tụ, cùng nhau lo cho các con. Cháu T2 biết cha muốn ly hôn với mẹ.

- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày, tranh luận của các bên đương sự thì xét thấy thời hạn chuẩn bị xét xử đảm bảo theo quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa, ông H có sự thay đổi ý kiến về cấp dưỡng, việc thay đổi này không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Nguyên đơn ông Nguyễn Huy H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bị đơn bà Đoàn Thị Hồng T. Bị đơn có nơi cư trú tại D2/65/1 ấp 4, xã Đ, huyện B, vì vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[3] Về sự vắng mặt của bị đơn: Do bị đơn bà Đoàn Thị Hồng T có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bà T theo quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về hôn nhân: Theo giấy chứng nhận kết hôn số 154, Quyển số 01/2002 do Ủy ban nhân dân xã H, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 16/12/2002 có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh H là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9, Điều 11 và Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

[5] Theo trình bày của ông H xác định giữa ông và bà T phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do giữa hai vợ chồng hay cãi nhau thường xuyên, cuộc sống chung không còn hạnh phúc, vợ chồng sống ly thân từ tháng 9/2020 cho đến nay, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn. Vì vậy, ông H yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông ly hôn với bà T.

[6] Còn bà T có nguyện vọng được đoàn tụ, không đồng ý ly hôn do vợ chồng chỉ hay cãi nhau chứ không có mâu thuẫn lớn.

[7] Hội đồng xét xử xét thấy, theo kết quả trả lời xác minh Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện B thì “Trong quá trình chung sống giữa bà Đoàn Thị Hồng T và ông Nguyễn Huy H thường đi nhậu, đi sớm về khuya. Bà T cằn nhằn thì ông H làm đơn ly hôn. Về cãi nhau xung đột ẩu đã nhau không có, không có bạo lực gia đình và không có ly thân, vẫn đi đi về về bình thường. Hiện cháu Nguyễn Duy T2, sinh ngày 04/01/2004 đang do bà T nuôi dưỡng, ở với bà T và ông H vẫn lo tài chính cho cháu T2 ăn học”. Như vậy, trên thực tế giữa ông H và bà T không có mâu thuẫn lớn hay xảy ra ẩu đả nhưng tình cảm giữa các bên không hàn gắn được, không có tiếng nói chung là có diễn ra. Bà T có nguyện vọng được đoàn tụ, không đồng ý ly hôn nhưng trong quá trình Tòa giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã giải thích, vận động hòa giải đối với ông H tuy nhiên ông H vẫn kiên quyết ly hôn. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy mục đích hôn nhân giữa ông H và bà T đã không đạt được, đời sống chung giữa hai vợ chồng không thể tiếp tục kéo dài. Do đó, ông H yêu cầu ly hôn đối với bà T là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về con chung: Ông H và bà T xác nhận hai con chung tên Nguyễn Huy D, sinh ngày 08/12/1999 (đã thành niên) và Nguyễn Duy T2, sinh ngày 04/01/2004. Khi ly hôn ông H có nguyện vọng giao cháu T2 cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng và ông sẽ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu T2 mỗi tháng 6.000.000 đồng. Còn bà T không thể hiện ý kiến của bà về con chung trong trường hợp ly hôn.

[8.1] Về quyền nuôi con sau khi ly hôn, Hội đồng xét xử nhận định: Theo kết quả trả lời xác minh của Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện B thì hiện cháu T2 đang do bà T nuôi dưỡng. Ông H đi đi về về và lo cho tài chính cho cháu T2 ăn học.

Do vậy, theo quy định khoản 1, khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử xem xét khả năng của các đương sự về việc đảm bảo cuộc sống ổn định, tinh thần cho con sau khi ly hôn nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao cháu Nguyễn Duy T2 cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

[8.2] Về cấp dưỡng:

- Cấp dưỡng nuôi con chưa thành niên khi ly hôn: Bà T không thể hiện ý kiến về cấp dưỡng nuôi con, còn ông H có nguyện vọng do cháu Tân còn hơn một tháng nữa đã thành niên nên ông sẽ cấp dưỡng nuôi cháu T2 một lần là 8.000.000 đồng vào ngày 15/12/2021.

- Về cấp dưỡng cho vợ con đã thành niên có khó khăn về kinh tế: Tại phiên tòa, ông H cũng trình bày do vợ, con đã thành niên có khó khăn về kinh tế, không có tài sản để tự nuôi mình nên ông đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kể từ ngày 15/01/2022 ông sẽ thực hiện việc cấp dưỡng cho vợ con như sau:

+ Cháu T2 mỗi tháng 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng);

+ Cháu D mỗi tháng 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng);

+ Bà T mỗi tháng 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).

Ông H sẽ thực hiện cấp dưỡng vào ngày 15 tây hàng tháng, bắt đầu thực hiện từ ngày 15/01/2022 cho đến ngày 15/01/2027.

Xét thấy, việc ông H có nguyện vọng cấp dưỡng cho vợ con là phù hợp với quy định tại Điều 110 và Điều 115 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng như việc thay đổi yêu cầu này không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu theo quy định tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử xem xét giải quyết yêu cầu này theo ý kiến của ông H.

Trong quá trình thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ông Nguyễn Huy H có quyền chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại Điều 118 Luật Hôn nhân và gia đình.

[9] Về tài sản chung: Ông H và bà T xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[10] Về nợ chung: Ông H và bà T xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[11] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn ông H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn và án phí đối với nghĩa vụ cấp dưỡng.

[12] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh về việc giải quyết vụ án là phù hợp nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 179, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 1 Điều 244 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 9, Điều 11 và Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 69, Điều 71, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110, Điều 115, Điều 116 và Điều 118 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Huy H đối với bà Đoàn Thị Hồng T về việc tranh chấp ly hôn.

1.1 Về hôn nhân: Ông Nguyễn Huy H được ly hôn với bà Đoàn Thị Hồng T. Quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Huy H và bà Đoàn Thị Hồng T chấm dứt cũng như giấy chứng nhận kết hôn số 154, Quyển số 01/2002 do Ủy ban nhân dân xã H, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 16/02/2002 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

1.2 Về con chung: Ông Nguyễn Huy H và bà Đoàn Thị Hồng T xác nhận hai con chung tên Nguyễn Huy D, sinh ngày 08/12/1999 (đã thành niên) và Nguyễn Duy T2, sinh ngày 04/01/2004.

Giao con chung tên Nguyễn Duy T2 cho bà Đoàn Thị Hồng T tiếp tục nuôi dưỡng.

Ông Nguyễn Huy H có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền cản trở, vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con sau này theo quy định tại Điều 83, Điều 84 và Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó theo quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

1.2.1 Ông Nguyễn Huy H có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Duy T2 cấp dưỡng nuôi cháu T2 một lần là 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) vào ngày 15/12/2021.

Các bên đương sự thực hiện việc cấp dưỡng tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền.

Trường hợp ông Nguyễn Huy H không thực hiện việc cấp dưỡng theo quyết định thì bà Đoàn Thị Hồng T có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành việc ông Nguyễn Huy H thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Kể từ khi bà Đoàn Thị Hồng T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Nguyễn Huy H chậm thực hiện việc cấp dưỡng nuôi con thì ông Nguyễn Huy H còn phải trả lãi theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

1.2.2 Kể từ ngày 15/01/2022 ông Nguyễn Huy H có trách nhiệm cấp dưỡng mỗi tháng cho vợ có khó khăn về kinh tế, con đã thành niên không có tài sản tự nuôi mình như sau:

- Bà Đoàn Thị Hồng T mỗi tháng 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng);

- Cháu Nguyễn Huy D mỗi tháng 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng);

- Cháu Nguyễn Duy T2 mỗi tháng 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng).

Ông Nguyễn Huy H sẽ thực hiện cấp dưỡng vào ngày 15 tây hàng tháng, bắt đầu thực hiện từ ngày 15/01/2022 cho đến ngày 15/01/2027.

Các bên đương sự thực hiện việc cấp dưỡng tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền.

Trường hợp ông Nguyễn Huy H không thực hiện việc cấp dưỡng theo quyết định thì bà Đoàn Thị Hồng T, cháu Nguyễn Huy D và cháu Nguyễn Duy T2 có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành việc ông Nguyễn Huy H thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Kể từ khi bà Đoàn Thị Hồng T, cháu Nguyễn Huy D và cháu Nguyễn Duy T2 có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Nguyễn Huy H chậm thực hiện việc cấp dưỡng nuôi con thì ông Nguyễn Huy H còn phải trả lãi theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Trong quá trình thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng ông Nguyễn Huy H có quyền chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định tại Điều 118 Luật Hôn nhân và gia đình.

1.3 Về tài sản chung: Ông Nguyễn Huy H và bà Đoàn Thị Hồng T xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

1.4 Về nợ chung: Ông Nguyễn Huy H và bà Đoàn Thị Hồng T xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

2. Về án phí: Nguyên đơn ông Nguyễn Huy H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn và 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí nghĩa vụ cấp dưỡng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mà ông H đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0080853 ngày 18/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông H còn phải nộp thêm số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn ông Nguyễn Huy H có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn bà Đoàn Thị Hồng T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 687/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:687/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về