Bản án về tranh chấp ly hôn số 61/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 61/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xét xử công khai sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số:

176/2022/TLST-HNGĐ, ngày 04 tháng 7 năm 2022 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2022/QĐXX-ST ngày 26/08/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 34/2022 ngày 14/9/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H (Có đơn xin xét xử vắng mặt), sinh năm 1976;

Đa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ.

- Bị đơn: Anh Trần Quang K, tên gọi khác là Trần Văn K (Vắng mặt), sinh năm 1969;

Đa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo nội dung đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình làm việc tại Tòa án, nguyên đơn trình bày: Chị H và anh Trần Quang K kết hôn ngày 13/01/1994 có đăng ký kết hôn tại UBND xã H, huyện H, tỉnh N. Hôn nhân của anh chị hoàn toàn tự nguyện. Anh chị có 04 người con chung là cháu Trần Thị T, sinh năm 1995; cháu Trần Văn K, sinh năm 1998; cháu Trần Thị Mỹ H, sinh năm 2000; cháu Trần Văn H, sinh ngày 21/11/2006. Về nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng không cùng quan điểm sống, không có tiếng nói chung, hay cãi vả dần dần lâm vào tình trạng trầm trọng không thể cứu vãn được nữa, cuộc sống hôn nhân lúc nào cũng thấy ngột ngạt, dần dần tình cảm vợ chồng không còn nữa, anh chị đã sống ly thân với nhau từ năm 2017 đến nay. Vì vậy, chị H thấy vợ chồng không còn tình cảm và không thể chung sống cùng nhan nữa nên muốn được ly hôn để ổn định cuộc sống.

Chị Nguyễn Thị H có quan điểm giải quyết vụ án như sau:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H xin được ly hôn với anh Trần Quang K.

2. Về nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị H xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Trần Văn H, sinh ngày 21/11/2006. Còn các cháu Trần Thị T, sinh năm 1995; cháu Trần Văn K, sinh năm 1998; cháu Trần Thị Mỹ H, sinh năm 2000 đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về tài sản chung và công nợ: không có tài sản chung, không nợ ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với anh Trần Quang K (bị đơn): Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Đăk Mil đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án; các giấy triệu tập và thông báo về phiên hòa giải đối với anh K nhưng anh K cố tình vắng mặt không có lý do trong tất cả các lần triệu tập và hòa giải, xét xử tại Tòa án. Do đó không có lời khai cũng như không cung cấp được cho Tòa án chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình và phản bác lại đối với yêu cầu của nguyên đơn. Vì vậy, theo quy định tại khoản 4 Điều 91 của Bộ luật tố tụng dân sự, anh K phải chịu hậu quả của việc không đưa ra được chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.

Đại diệnViện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết vụ án và nội dung vụ án:

Về việc tuân thủ theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm đều tuân thủ trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.

Tòa án đã thụ lý và giải quyết vụ án là đúng với thẩm quyền theo quy định.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào quy định tại Điều 51, 56, 58 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án, đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc xin ly hôn.

Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Trần Quang K.

Về nuôi con chung: Giao cháu Trần Văn H, sinh ngày 21/11/2006 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu trưởng thành.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: không có tài sản chung, không nợ ai và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

Về án phí: nguyên đơn phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

1. Về thủ tục tố tụng:

[1]Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Nguyễn Thị H yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn với anh Trần Quang K, đây là tranh chấp về ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn có đăng ký hộ khẩu tại Thôn T, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đ nên Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil thụ lý, giải quyết là đúng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3]Về sự vắng mặt của các đương sự: Chị Nguyễn Thị H vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên chị H đã có đơn xin xét xử vắng mặt gửi đến Tòa án. Đối với bị đơn đã được Tòa án nhân dân huyện Đăk Mil triệu tập hợp lệ đến 02 lần (tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa) để tham gia phiên tòa nhưng anh K cố tình vắng mặt không có lý do chính đáng gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Căn cứ vào Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

2. Về nội dung vụ án:

[4]2.1 Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh K kết hôn với nhau và đang ký kết hôn vào ngày 13/01/1994 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện H, tỉnh N; việc kết hôn và đăng ký kết hôn là hoàn toàn tự nguyện nên quan hệ hôn nhân là phù hợp và được pháp luật thừa nhận. Trong quá trình chung sống hai bên xảy ra nhiều mâu thuẫn không có tiếng nói chung, hay cãi vã dần lâm vào tình trạng trầm trọng không thể cứu vãn được nữa, cuộc sống hôn nhân lúc nào cũng thấy ngột ngạt, dần dần tình cảm vợ chồng không còn nữa, anh chị đã sống ly thân với nhau từ năm 2017. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H về việc ly hôn.

[5]2.2 Về nuôi con chung: Chị H có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Trần Văn H, sinh ngày 21/11/2006.

Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 “2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì thì Tòa án quyết định giao con cho một bên căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

Cháu Trần Văn H hiện đang ở cùng với chị H kể từ khi hai vợ chồng sống ly thân đến nay, qua lấy lời khai của cháu H có nguyện vọng ở với chị H; trong quá trình giải quyết vụ án, anh K cố tình vắng mặt không có lý do, không tham gia giải quyết vụ án để trình bày ý kiến và cung cấp liên quan để giải quyết vụ án nên anh K phải chịu hậu quả của việc không đưa ra được chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình.

Do đó, cần giao cháu H cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp.

[6]2.3 Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[7] 2.3 Về tài sản chung và nợ chung: các đương sự không yêu cầu Toà án giải quyết nên không xem xét, giải quyết.

[8]3. Về án phí: Căn cứ Điều 144, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5, khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

nguyên đơn phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

[9]Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil tại phiên toà là có căn cứ và phù hợp với các quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 227, Điều 228; Điều 144, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 58 của Luật hôn nhân gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H về việc ly hôn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H được ly hôn với anh Trần Quang K (chấm dứt quan hệ hôn nhân).

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Trần Văn H, sinh ngày 21/11/2006 cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu trưởng thành.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền đi lại, thăm nom và chăm sóc, giáo dục con chung, người trực tiếp nuôi con không được cản trở hoặc gây trở ngại đến việc thăm nom, giáo dục các cháu.

Việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn; nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ không trực tiếp nuôi con sau ly hôn; nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật HNGĐ năm 2014.

3.Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không có yêu cầu nên không xem xet, giải quyết.

Vì lợi ích của con chung theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn; yêu cầu cấp dưỡng theo quy định các Điều 84; Điều 110 ; Điều 117 và Điều 119 Luật Hôn nhân gia đình 2014.

3. Về chia tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải nộp 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000949 ngày 04/7/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Đ.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 61/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:61/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về