Bản án về tranh chấp ly hôn số 529/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 529/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 07 tháng 5 năm 2021, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 852/2020/TLST- HNGĐ ngày 12/8/2020 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 94/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22/3/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 113/2021/QĐST-HNGĐ ngày 14/4/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thúy N, sinh năm: 1994;

Địa chỉ: Ấp B, xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai. (Chị N có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Võ Hoàng K, sinh năm: 1986;

Địa chỉ: F2/32 ấp 6A, xã L, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh. (Anh K vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 17/7/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án - Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thúy N trình bày:

Chị và anh Võ Hoàng K bắt đầu chung sống với nhau vào năm 2014, không có tổ chức đám cưới, do tự tìm hiểu, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2014. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, bình thường không có gì xảy ra, đến năm 2018 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh K không đi làm lo cho gia đình và hay đánh đập chị và con. Vì vậy, chị và anh K sống ly thân từ tháng 9 năm 2019 cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn có thể hàn gắn được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Võ Hoàng K.

Về con chung, chị và anh K chung sống có hai con chung tên Võ Hoàng Dĩ D, sinh ngày 18/8/2014 và Võ Hoàng Thiên L, sinh ngày 23/8/2016, hiện các cháu đang ở với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Về tài sản chung, chị N xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung, chị N xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã tiến hành tống đạt hợp lệ cho anh Võ Hoàng K gồm: thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh Võ Hoàng K vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án và cũng không thể hiện ý kiến của mình bằng bất cứ văn bản nào.

- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh tham gia phiên tòa phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày, tranh luận của các bên đương sự thì xét thấy thời hạn chuẩn bị xét xử chưa đảm bảo theo quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thúy N khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bị đơn anh Võ Hoàng K. Theo kết quả trả lời xác minh của Công an xã L, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh thì anh Võ Hoàng K có đăng ký hộ khẩu thường trú tại địa chỉ F2/32 tổ 6 ấp 6A, xã L, huyện C và hiện đang cư trú tại địa chỉ trên. Vì vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[3] Về sự vắng mặt của các đương sự:

- Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thúy N có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vắng mặt, do đó Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt chị N theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với bị đơn anh Võ Hoàng K, Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và giấy triệu tập đương sự tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự cho anh Võ Hoàng K nhưng anh K vẫn không đến tham gia tố tụng tại Tòa án nên Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh K theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về hôn nhân: Theo giấy chứng nhận kết hôn số 183, Quyển số 01/2014 do Ủy ban nhân dân xã L, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 29/9/2014 có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh K là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9, Điều 11 và Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.

[5] Theo trình bày của chị N xác định giữa chị và anh K phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do giữa hai vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp, vợ chồng không còn yêu thương, không còn sự chăm sóc lẫn nhau, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn. Vì vậy, chị N yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh K. Còn anh K vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án, không thể hiện ý kiến, yêu cầu về các yêu cầu khởi kiện của chị N.

[6] Hội đồng xét xử xét thấy, theo kết quả trả lời xác minh Ủy ban nhân dân xã L, huyện C tại Công văn số 479/UBND ngày 16/11/2020 xác nhận trong quá trình chung sống giữa chị N và anh K thỉnh thoảng có xảy ra gây gỗ, do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, hiện chị N và anh K sống ly thân. Đồng thời, trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án thì anh K vắng mặt, như vậy, mâu thuẫn giữa chị N và anh K là có diễn ra, việc sống ly thân là có thật. Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy mục đích hôn nhân giữa chị N và anh K đã không đạt được, đời sống chung giữa hai vợ chồng không thể tiếp tục kéo dài. Do đó, chị N yêu cầu ly hôn đối với anh K là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về con chung: Chị N xác nhận giữa chị và anh K có hai con chung tên Võ Hoàng Dĩ D, sinh ngày 18/8/2014 và Võ Hoàng Thiên L, sinh ngày 23/8/2016, hiện các cháu đang ở với chị N. Khi ly hôn chị N yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với anh K.

[7.1] Về quyền nuôi con sau khi ly hôn, Hội đồng xét xử nhận định: Theo kết quả trả lời xác minh của Ủy ban nhân dân xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai tại Công văn số 272/UBND ngày 28/10/2020 thì hiện các cháu Võ Hoàng Dĩ D, Võ Hoàng Thiên L đang sống cùng ông bà ngoại tại ấp B, xã P, huyện V, tỉnh Đồng Nai; riêng chị N thuộc dạng khuyết tật tâm thần ở mức độ nặng và hiện đang được hưởng chế độ trợ cấp hàng tháng từ ngân sách nhà nước (theo Giấy xác nhận khuyết tật năm 2018).

Theo Phiếu kết quả điện não của Bệnh viện tâm thần Trung ương 2 ngày 07/01/2021 (do nguyên đơn chị N cung cấp) kết luận “chưa phát hiện bất thường trên EEG”. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án chị N hiểu rõ và biết được những hành vi, ý kiến của cá nhân mình khi được Tòa án hỏi.

Do vậy, theo quy định khoản 1, khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử xem xét khả năng của các đương sự về việc đảm bảo cuộc sống ổn định, tinh thần cho con sau khi ly hôn cũng như căn cứ vào thực tế việc các cháu Võ Hoàng Dĩ D và Võ Hoàng Thiên L đang sống cùng chị N và được sự quan tâm, chăm sóc của cha mẹ chị N, nên Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu Võ Hoàng Dĩ D và Võ Hoàng Thiên L cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

[7.2] Về cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn: Chị N không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con, còn anh K vắng mặt không thể hiện ý kiến về con chung giữa anh và chị N. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét giải quyết yêu cầu này theo ý kiến của chị N, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh K.

[8] Về tài sản chung: Chị N xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn anh K vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của anh về tài sản chung giữa anh và chị N. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận vấn đề tài sản chung theo yêu cầu của chị N, trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

[9] Về nợ chung: Chị N xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn anh K vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của anh về nợ chung giữa anh và chị N. Do đó, Hội đồng xét xử ghi nhận vấn đề nợ chung theo yêu cầu của chị N, trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

[10] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thúy N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

[11] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh về việc giải quyết vụ án là phù hợp nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 179, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 9, Điều 11 và Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 69, Điều 71, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thúy N và bị đơn anh Võ Hoàng K về việc tranh chấp ly hôn.

1.1 Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thúy N được ly hôn với anh Võ Hoàng K. Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Thúy N và anh Võ Hoàng K chấm dứt cũng như giấy chứng nhận kết hôn số 183, Quyển số 01/2014 do Ủy ban nhân dân xã L, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 29/9/2014 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

1.2 Về con chung: Chị Nguyễn Thị Thúy N và anh Võ Hoàng K có hai con chung tên Võ Hoàng Dĩ D, sinh ngày 18/8/2014 và Võ Hoàng Thiên L, sinh ngày 23/8/2016. Giao hai con chung tên Võ Hoàng Dĩ D và Võ Hoàng Thiên L cho chị Nguyễn Thị Thúy N tiếp tục nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Võ Hoàng K.

Anh Võ Hoàng K có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền cản trở, vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con sau này theo quy định tại Điều 83, Điều 84 và Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó theo quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

1.3 Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị Thúy N xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Tòa án không đặt ra giải quyết; trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

1.4 Về nợ chung: Chị Nguyễn Thị Thúy N xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Tòa án không đặt ra giải quyết; trường hợp các đương sự có tranh chấp sẽ yêu cầu giải quyết trong một vụ án khác.

2. Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thúy N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mà chị N đã nộp theo biên lai thu số AA/2019/0079875 ngày 31/7/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Chị N đã nộp đầy đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 529/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:529/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về