TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 38/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 26 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 283/2022/TLST - HNGĐ ngày 11 tháng 05 năm 2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 83/2022/QĐST – HNGĐ ngày 05/7/2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Lê Phương N, sinh năm 1999; địa chỉ: đường XVNT, phường H, thành phố ĐL, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
Bị đơn: Anh Phạm Ngô Quốc S, sinh năm 1997; địa chỉ: đường XVNT, phường H, thành phố ĐL, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Nguyễn Lê Phương N thì:
Chị và anh Phạm Ngô Quốc S đăng ký kết hôn vào năm 2019 tại Uỷ ban nhân dân phường H, thành phố ĐL, tỉnh Lâm Đồng. Hôn nhân do hai bên tự nguyện, có tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống chung với gia đình chị tại đường XVNT, phường H, thành phố ĐL. Qúa trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh S thường xuyên nhậu nhẹt về nhà say xỉn, chửi mắng xúc phạm chị, sống không có trách nhiệm với gia đình vợ con, đi làm về không đưa tiền cho chị để lo cho cuộc sống gia đình, con cái nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã. Chị đã khuyên giải anh S nhiều lần nhưng anh Sơn không thay đổi, vợ chồng đã ngồi lại nói chuyện với nhau, tìm cách tháo gỡ mâu thuẫn, nhưng không có kết quả mà mâu thuẫn giữa vợ chồng ngày càng gay gắt hơn. Tháng 10/2020 chị đã làm đơn ly hôn gửi lên Tòa án nhưng vì con còn nhỏ nên chị đã rút đơn cho anh S thêm cơ hội để vợ chồng về đoàn tụ nhưng anh S không thay đổi. Hiện tại vợ chồng vẫn sống chung trong một nhà nhưng không ai hỏi ai, mạnh ai nấy sống. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Ngô Quốc S.
Về con chung: Chị N xác định có 01con chung tên Phạm Nguyễn Quốc P, sinh ngày 20/02/2020. Ly hôn chị yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Chị N xác định không có.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án cho bị đơn anh Phạm Ngô Quốc S nhưng sau thời hạn 15 ngày kể từ khi nhận được thông báo thụ lý vụ án anh S không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đồng thời không cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh bảo vệ quyền lợi cho mình.
Tòa án đã tiến hành mở phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh S vắng mặt.
Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chị N xác định tình cảm vợ chồng không còn nên vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh S. Bị đơn anh S đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, các đương sự và Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án. Về quan điểm giải quyết vụ án: đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Lê Phương N, cho chị N được ly hôn với anh S, giao con chung Phạm Nguyễn Quốc Ph, sinh ngày 20/02/2020 chi chị N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến ngày con chung thành niên.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn anh Phạm Ngô Quốc S đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, vì vậy Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh S theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Lê Phương N và anh Phạm Ngô Quốc S kết hôn với nhau năm 2019, quá trình chung sống vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, chị N khởi kiện đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh S nên xác định quan hệ tranh chấp ly hôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; bị đơn anh Phạm Ngô Quốc S cư trú đường XVNT,phường H, thành phố ĐL căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nói trên.
[3] Về nội dung:
[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Theo giấy chứng nhận kết hôn ngày 05/8/2019 của Uỷ ban nhân dân phường H, thành phố ĐL, tỉnh Lâm Đồng, lời khai trình bày thừa nhận của đương sự đã đủ cơ sở xác định hôn nhân giữa chị N và anh S là hôn nhân hợp pháp. Qua xem xét thấy rằng, cuộc sống hôn nhân giữa chị N và anh S sau khi kết hôn hạnh phúc đến năm 2020 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân theo chị N do anh S thường xuyên nhậu nhẹt về nhà say xỉn, chửi mắng xúc phạm chị, sống không có trách nhiệm với gia đình vợ con nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, chị đã khuyên giải anh S nhiều lần nhưng anh S không thay đổi, vợ chồng đã ngồi lại nói chuyện với nhau, tìm cách tháo gỡ mâu thuẫn, nhưng không có kết quả mà mâu thuẫn giữa vợ chồng ngày càng gay gắt hơn. Hiện tại vợ chồng vẫn sống chung trong một nhà nhưng không ai hỏi ai, mạnh ai nấy sống. Như vậy, thấy rằng hôn nhân giữa hai bên trên thực tế không còn tồn tại, hai bên không có sự yêu thương, chia sẻ lẫn nhau và mục đích hôn nhân không đạt được do đó cần căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, giải quyết cho chị N được ly hôn với anh S là có cơ sở. [3.2] Về con chung: Dựa trên trình bày của chị Nhi xác nhận vợ chồng có 01con chung tên Phạm Nguyễn Quốc P, sinh ngày 20/02/2020. Qua xem xét thì thấy rằng, hiện tại cháu P đang do chị N trực tiếp nuôi dưỡng, cháu Ph dưới 36 tháng tuổi, theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 có quy định: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”, cháu Ph còn nhỏ, cần sự chăm sóc của mẹ, để tránh xạo trộn sinh hoạt của con, đảm bảo cho con về mọi mặt thì cần giao chung chung cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng; việc cấp dưỡng nuôi con do chị N không có yêu cầu nên không cần buộc anh S thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.
[3.3] Về tài sản chung, nợ chung: chị N xác định không có nên không đề cập giải quyết.
[4] Về án phí: Chị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;
- Căn cứ Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Lê Phương N về việc “Ly hôn”.
1. Về quan hệ hôn nhân: giải quyết cho chị Nguyễn Lê Phương N được ly hôn với anh Phạm Ngô Quốc S.
2. Về con chung:
2.1.Giao con chung Phạm Nguyễn Quốc Ph, sinh ngày 20/02/2020 cho chị Nguyễn Lê Phương N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến ngày con chung thành niên, anh Sơn không phải cấp dưỡng nuôi con.
2.2. Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi cấp dưỡng được thực hiện theo quy định Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
3.Về án phí: Chị Nguyễn Lê Phương Nh phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001791 ngày 11 tháng 5 năm 2022của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt.
4. Về nghĩa vụ thi hành án:
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 38/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 38/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 26/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về