Bản án về tranh chấp ly hôn số 22/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CAI LẬY-TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 22/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 26 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 250/2021/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2021 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự.

Nguyên đơn: chị A, sinh năm 1999;

Hộ khẩu thường trú: ấp A1, xã A2, thị xã A3, tỉnh Tiền Giang.

Bị đơn: anh Nguyễn Văn Minh, sinh năm 1993;

Địa chỉ: ấp A1, xã A2, thị xã A3, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

(Chị A có mặt, anh B vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 08/11/2021, trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị và anh B do quen biết và được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND xã A2, thị xã A3, tỉnh Tiền Giang theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 26 ngày 23/3/2018. Sau khi cưới thì chị và anh B sống ở ấp A1, xã A2, thị xã A3, tỉnh Tiền Giang. Quá trình chung sống hạnh phúc với nhau được một thời gian thì đến tháng 4/2020 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh B không quan tâm vợ con, thường hay nhậu. Chị và anh B đã ly thân và cắt đứt quan hệ vợ chồng từ đầu năm 2021 cho đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đoàn tụ lại sống không hạnh phúc. Nên chị yêu cầu ly hôn với anh B.

Về con chung: có 02 con chung tên C, sinh ngày 28/9/2014 và D, sinh ngày 30/6/2017. Khi ly hôn chị A yêu cầu nuôi dưỡng con chung tên C, chị đồng ý giao con chung tên D cho anh B nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi cháu D và chị cũng không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi cháu C.

Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh B đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án; Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa và triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh B vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở lời trình bày của các đương sự, các tài liệu chứng cứ được đưa ra xem xét tại phiên tòa. Trên cơ sở kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa bị đơn anh B vắng mặt không lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử trong trường hợp vắng mặt bị đơn tại phiên tòa là phù hợp.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn xác định quan hệ tranh chấp “Ly hôn”, bị đơn anh B có hộ khẩu thường trú tại ấp A1, xã A2, thị xã A3, tỉnh Tiền Giang căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

[3] Về quan hệ hôn nhân: chị A và anh B về chung sống với nhau vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại UBND xã A2, thị xã A3, tỉnh Tiền Giang theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 26 ngày 23/3/2018 nên đây là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống hạnh phúc một thời gian thì đến tháng 4/2020 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không hợp nhau, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh B không quan tâm vợ con, thường hay nhậu. Trong thời gian qua chị thấy tình cảm vợ chồng chị không còn, không thể hàn gắn được nữa, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Chị và anh B đã ly thân và cắt đứt quan hệ vợ chồng từ đầu năm 2021 cho đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy: sau khi chị A và anh B xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2013, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì đến đầu tháng 4/2020 phát sinh mâu thuẫn. Từ lúc ly thân khoảng tháng 01/2021 cho đến nay thì chị A và anh B không còn liên lạc với nhau. Sau khi tòa án thụ lý vụ án đã tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng cho anh B để thông báo về yêu cầu ly hôn của chị A, nhưng anh B không có ý kiến gì; không có mặt tham gia các phiên hòa giải và phiên tòa, anh B không thể hiện được ý kiến, cũng không đưa ra biện pháp cụ thể nào để hàn gắn lại mối quan hệ vợ chồng. Việc anh B không đến trong suốt quá trình tòa án giải quyết vụ án là anh B đã mặc nhiên từ bỏ cơ hội để vợ chồng hàn gắn, đoàn tụ với nhau. Mặc dù, Tòa án đã động viên nhưng chị A vẫn kiên quyết yêu cầu ly hôn với anh B. Từ những tình tiết trên, đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử nhận định tình trạng hôn nhân giữa chị A, anh B đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị A là phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Có 02 con chung tên C, sinh ngày 28/9/2014 và D, sinh ngày 30/6/2017. Khi ly hôn chị A yêu cầu nuôi dưỡng con chung tên D, chị đồng ý giao con chung tên D cho anh B nuôi dưỡng, chị không cấp dưỡng nuôi cháu D và chị cũng không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi cháu C. Xét, từ khi chị A và anh B sống ly thân đến nay con chung tên D do chị A trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng và con chung tên D do anh B trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đã ổn định cuộc sống và đảm bảo tốt về mọi mặt, sau khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến nay thì anh B cũng không đến nên coi như anh đã từ bỏ quyền của mình đối với yêu cầu về nuôi dưỡng con chung. Đồng thời, theo lời khai của cháu C có nguyện vọng được sống với chị A khi chị A và anh B ly hôn. Do đó, để ổn định cuộc sống cho cháu C và cháu D, nên giao cháu D cho chị A chăm sóc nuôi dưỡng, giao cháu D cho anh B chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Chị A không cấp dưỡng nuôi cháu D và cũng không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi cháu C, anh B không có ý kiến đối với yêu cầu nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Chị A xác định không có tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh B không có ý kiến trình bày nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về nợ chung: Chị A xác định không có nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh B không có ý kiến trình bày nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: Buộc chị A phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 272, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử 1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị A được ly hôn với anh B.

2. Về con chung: Giao cháu D, sinh ngày 28/9/2014 cho chị A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; giao cháu D, sinh ngày 30/6/2017 cho anh B trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con cho bên nào, do chị A và anh B chưa có yêu cầu.

Chị A và anh B có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị A phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà chị A đã nộp theo biên lai thu số 0002095 ngày 09/11/2021 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang nên xem như chị A đã nộp xong tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị A có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; anh B có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 22/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:22/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về