Bản án về tranh chấp ly hôn số 215/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 215/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/12/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 754/2021/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 215/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Lê Thị Kim L, sinh năm 1995, (xin vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: Ấp LT, xã LG, huyện Đ , tỉnh Long An.

Bị đơn: Phan Văn M , sinh năm 1990, (xin vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: Ấp LT, xã LG, huyện Đ , tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 15 tháng 11 năm 2021 nguyên đơn bà Lê Thị Kim L trình bày:

Bà và ông Phan Văn M cưới nhau năm 2017, có đăng ký kết hôn tại UBND xã LG ngày 05/4/2017. Bà và ông M chung sống hạnh phúc. Đến năm 2018 bắt đầu xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do cuộc sống chung không hợp, thường xuyên cãi vã với nhau vì ông M ham chơi cờ bạc và có người phụ nữ khác. Bà cho ông M nhiều cơ hội nhưng ông M không thay đổi nên vợ chồng sống ly thân từ tháng 4 năm 2021 đến nay. Nay, bà xin ly hôn với ông Mèo.

Về con chung: Bà và ông M có con chung tên Phan Duy K, sinh ngày 02/5/2017. Khi ly hôn, bà yêu cầu nuôi con chung, yêu cầu ông M cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 08 tháng 12 năm 2021 bị đơn ông Phan Văn M trình bàyTôi đồng ý ly hôn với vợ của tôi là Lê Thị Kim L.

Về con chung: Tôi đồng ý để vợ tôi nuôi con chung tên Phan Duy K, hiện con đang sống với vợ tôi và tôi cấp dưỡng theo quy định.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng:

[1.1]. Bà L khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông M, hiện đang sinh sống tại huyện Đ , tỉnh Long An nên Tòa án nhân dân huyện Đ thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2]. Tại phiên tòa, nguyên đơn bà L , bị đơn ông M có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[1.3]. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, Bà L có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên đưa vụ án ra xét xử.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà L , ông M chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã LG, huyện Đ , tỉnh Long An ngày 05/4/2017 nên hôn nhân giữa ông bà là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Về yêu cầu ly hôn: Trong quá trình chung sống, bà L cho rằng năm 2018 bắt đầu xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do cuộc sống chung không hợp, thường xuyên cãi vã với nhau vì ông M ham chơi cờ bạc và có người phụ nữ khác. Bà cho ông M nhiều cơ hội nhưng ông M không thay đổi. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 4 năm 2021 đến nay nên bà xin ly hôn với ông Mèo. Tại phiên tòa hôm nay, ông M xin vắng mặt. Tại bản tự khai, ông M đồng ý ly hôn. Xét thấy, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó xét yêu cầu xin ly hôn của bà L đối với ông M là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung: Quá trình chung sống, bà L và ông M có con chung tên Phan Duy Khôi, sinh ngày 02/5/2017. Khi ly hôn, bà L yêu cầu nuôi con chung. Ông M đồng ý giao con chung cho bà L nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5]. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà L yêu cầu ông M cấp dưỡng nuôi con. Ông M đồng ý cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật là phù hợp quy định tại Điều 110, Điều 116 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên buộc ông M có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi mỗi tháng 1.000.000 đồng, cho đến khi con đủ 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 12 năm 2021.

[6]. Về tài sản chung và nợ chung: Bà L và ông M đều khẳng định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Bà L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Ông M phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con theo Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a Khoản 5, Điểm a Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110, Điều 116 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Điểm a Khoản 5, Điểm a Khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị Kim L đối với ông Phan Văn M về việc “Ly hôn”.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Kim L được ly hôn với ông Phan Văn M .

2. Về con chung: Buộc ông M có trách nhiệm giao con chung tên Phan Duy K, sinh ngày 02/5/2017 cho bà L nuôi dưỡng; buộc ông M có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi mỗi tháng 1.000.000 đồng, cho đến khi con đủ 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng tính từ tháng 12 năm 2021.

Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí: Bà L phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0009130 ngày 30/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Long An để thi hành. Bà L đã nộp đủ. Ông M phải chịu 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con, sung ngân sách nhà nước.

Án xử sơ thẩm, công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

623
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 215/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:215/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Huệ - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về