TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 191/2021/HNGĐ-ST NGÀY 03/12/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 03 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 603/2021/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 176/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 11 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 113/2021/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Dương Thị X, sinh năm 1991, (xin vắng mặt) Hộ khẩu thường trú: Ấp ATh, xã ANT, huyện Đ , tỉnh Long An; tạm trú: Số 1191 Quốc lộ 1A, Khu phố 14, phường BTĐ B, quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Phạm Minh H, sinh năm 1992, (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp ATh, xã ANT, huyện Đ , tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 04 tháng 6 năm 2021 và bản tự khai nguyên đơn bà Dương Thị X trình bày:
Bà và ông H chung sống với nhau năm 2012, có đăng ký kết hôn tại UBND xã ANT ngày 24/4/2012. Bà và ông H chung sống với nhau được 9 năm. Đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi vã. Ông H ghen tuông vô cớ, uống rượu say về kiếm chuyện chửi bới xúc phạm bà, đe dọa đòi đâm bà. Bà có khuyên nhưng ông H không thay đổi. Cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, tình nghĩa vợ chồng đã rạn nứt khó mong hàn gắn nên xin ly hôn với ông H.
Về con chung: Bà và ông H có hai con chung tên Phạm Thị Yến N, sinh ngày 28/3/2013 và Phạm Thị N Ý, sinh ngày 01/7/2016. Hai con hiện đang sống chung với ông H. Khi ly hôn, bà đồng ý giao hai con chung cho ông H nuôi dưỡng. Bà không cấp dưỡng.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.
Tại bản tự khai bị đơn ông Phạm Minh H trình bày: Nay, bà X xin ly hôn thì ông không đồng ý.
Về con chung: Vợ chồng ông có hai con chung tên Phạm Thị Yến N, sinh ngày 28/3/2013 và Phạm Thị N Ý, sinh ngày 01/7/2016. Nếu ly hôn, ông yêu cầu nuôi 2 con chung, không yêu cầu bà X cấp dưỡng.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng:
[1.1]. Bà X khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông H, hiện đang sinh sống tại huyện Đ, tỉnh Long An nên Tòa án nhân dân huyện Đ thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[1.2]. Tại phiên tòa, nguyên đơn bà X có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn ông H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.
[1.3]. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Bà X có đơn đề nghị không tiến hành hòa giải nên đưa vụ án ra xét xử.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà X, ông H chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã ANT, huyện Đ, tỉnh Long An ngày 24/4/2012 nên hôn nhân giữa ông bà là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3]. Về yêu cầu ly hôn: Trong quá trình chung sống, bà X cho rằng năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi vã. Ông H ghen tuông vô cớ, uống rượu say về kiếm chuyện chửi bới xúc phạm bà, đe dọa đòi đâm bà. Bà có khuyên nhưng ông H không thay đổi. Cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, tình nghĩa vợ chồng đã rạn nứt khó mong hàn gắn nên xin ly hôn với ông H. Ông H không đồng ý ly hôn. Tại phiên tòa hôm nay, ông H vắng mặt, chứng tỏ ông không có thiện chí để hàn gắn. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được, do đó xét yêu cầu xin ly hôn của bà X đối với ông H là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4]. Về con chung: Quá trình chung sống, bà X và ông H có con chung tên Phạm Thị Yến N, sinh ngày 28/3/2013 và Phạm Thị N Ý, sinh ngày 01/7/2016. Hai con hiện đang sống chung với ông H. Ông H nêu: Nếu Tòa án cho ly hôn, ông H yêu cầu nuôi hai con chung, không yêu cầu bà X cấp dưỡng. Xét thấy, ông H không hợp tác nên Tòa án không thu thập được nguyện vọng của cháu Phạm Thị Yến N. Ngoài ra, bà X đồng ý giao hai con chung cho ông H nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[5]. Về cấp dưỡng nuôi con: Ông H không yêu cầu bà X cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6]. Về tài sản chung: Bà X và ông H trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7]. Về nợ chung: Bà X và ông H đều xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8]. Về án phí: Bà X phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo Khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Áp dụng Điều 9, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Dương Thị X đối với ông Phạm Minh H về việc “Ly hôn”.
Về quan hệ hôn nhân: Bà Dương Thị X được ly hôn với ông Phạm Minh H.
2. Về con chung: Ông H được quyền tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung tên Phạm Thị Yến N, sinh ngày 28/3/2013 và Phạm Thị N Ý, sinh ngày 01/7/2016, hiện đang sống chung với ông H. Bà X không phải cấp dưỡng nuôi con, do ông H không có yêu cầu.
Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.
Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí: Bà X phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0008897 ngày 29/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đ, tỉnh Long An để thi hành. Bà X đã nộp đủ.
Án xử sơ thẩm, công khai, nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 191/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 191/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Huệ - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 03/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về