Bản án về tranh chấp ly hôn số 186/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 186/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 26 tháng 11 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 475/2021/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2021 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 177/2021/QĐXX-ST ngày 15/10/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 105/2021/QĐST-HNGĐ ngày 04/11/2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Ngô Thị M, sinh năm 1985.

Địa chỉ: Ấp G, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An (xin vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1980.

Địa chỉ: Ấp G, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời trình bày tại bản tự khai của nguyên đơn bà Ngô Thị M như sau:

Bà M và ông Nguyễn Văn Th xác lập quan hệ hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện Đ, tỉnh Long An vào ngày 28/3/2008. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông Th không có công việc ổn định nhưng thường xuyên cờ bạc, không chăm lo cuộc sống vợ con; vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung trong hôn nhân. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn nên bà yêu cầu ly hôn với ông Th.

Về con chung: Quá trình chung sống, ông bà có 02 con chung tên Nguyễn Văn T, sinh ngày 27/6/2009 và Nguyễn Thị Thanh T1, sinh ngày 31/01/2011. Khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà không yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Tòa án đã nhiều lần triệu tập bị đơn ông Nguyễn Văn Th tham gia tố tụng để giải quyết vụ án nhưng ông Th vắng mặt không lý do và không gửi văn bản trình bày ý kiến nên không thể hiện ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định như sau:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Ngô Thị M nộp đơn khởi kiện ly hôn với ông Nguyễn Văn Th có địa chỉ cư trú tại xã M, huyện Đ, tỉnh Long An nên căn cứ vào Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đây là tranh chấp về ly hôn, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn bà Ngô Thị M có đơn đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải nên căn cứ vào Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án trên thuộc trường hợp không tiến hành hòa giải được. Tòa án chỉ tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ.

Bà M xin xét xử vắng mặt; ông Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà M, ông Th theo quy định tại Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung:

Về quan hệ hôn nhân: Bà M và ông Th tự nguyện tiến đến hôn nhân có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện Đ, tỉnh Long An vào ngày 28/3/2008 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ phần trình bày của bà M về mâu thuẫn của vợ chồng không thể hàn gắn, hiện không còn sống chung, không quan tâm lo lắng cho nhau, bà M vẫn giữ yêu cầu ly hôn với ông Th, bị đơn ông Th đã được Tòa án thực hiện các thủ tục tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng nhưng ông Th vắng mặt không có lý do. Điều đó chứng tỏ ông Th không còn quan tâm đến quan hệ hôn nhân, không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Từ đó cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà M và ông Th là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân của các bên không đạt được, nên căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của Bà Ngô Thị M.

Về con chung: Quá trình chung sống, ông bà có 02 con chung tên Nguyễn Văn T, sinh ngày 27/6/2009 và Nguyễn Thị Thanh T1, sinh ngày 31/01/2011. Khi ly hôn, bà M yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Xét thấy, cháu T và cháu T1 từ lúc sinh ra đến nay cháu sống cùng mẹ, được mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục phát triển khỏe mạnh, toàn diện, cuộc sống ổn định. Các cháu đã trên 07 tuổi và đều có nguyện vọng sống cùng mẹ trong trường hợp Tòa án giải quyết cho cha mẹ cháu ly hôn. Do đó, căn cứ vào điều kiện của các bên, quyền lợi về mọi mặt và lợi ích của con chung, Hội đồng xét xử quyết định giao 02 cháu Nguyễn Văn T và Nguyễn Thị Thanh T1 cho bà M tiếp tục nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà M không yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về nợ chung: Không có.

Ông Th vắng mặt không lý do trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án và không thể hiện ý kiến về quyền nuôi con chung, mức cấp dưỡng, tài sản chung và nợ chung. Trường hợp, sau này các đương sự có phát sinh tranh chấp liên quan đến các vấn đề này được quyền khởi kiện thành vụ kiện khác.

[4] Về án phí: Nguyên đơn bà Ngô Thị M phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 147, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Điều 18, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị M về việc tranh chấp ly hôn đối với ông Nguyễn Văn Th.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Ngô Thị M được ly hôn với ông Nguyễn Văn Th.

Về con chung: Bà Ngô Thị M được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung tên Nguyễn Văn T, sinh ngày 27/6/2009 và Nguyễn Thị Thanh T1, sinh ngày 31/01/2011.

Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Nguyễn Văn Th không phải cấp dưỡng nuôi con do bà M không yêu cầu.

Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Khi cần thiết các bên có thể thay đổi việc nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Về án phí: Bà Ngô Thị M phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà bà M đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007622 ngày 20/5/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa. Bà Ngô Thị M đã nộp xong.

Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 186/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:186/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về