Bản án về tranh chấp ly hôn số 18/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAI LẬY, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 18/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/01/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 25 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 514/2020/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 264/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 11/2021/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị Cẩm T, sinh năm 1984 (xin vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp 1, xã C, huyện C, tỉnh T.

Bị đơn: Anh Ngô Trung H, sinh năm 1988 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp 1, xã C, huyện C, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Trần Thị Cẩm T trình bày: Chị và anh Ngô Trung H được gia đình tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn vào ngày 27/5/2013 tại Ủy ban nhân dân xã Lương Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống chung với mẹ chồng tại Ấp 1, xã C, huyện C, tỉnh T. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không hợp, anh H có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác nên thường xuyên cãi vã, làm cho cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Vì không muốn gia đình đỗ vỡ, ảnh hưởng đến con cái nên chị luôn nhường nhịn nhưng anh H không sửa đổi dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng hơn. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên vợ chồng đã ly thân từ năm 2017 đến nay nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Ngô Trung H.

Con chung: Có 02 cháu tên Ngô Trung N, sinh ngày 31/7/2013 và Ngô Ngọc Y, sinh ngày 10/9/2015. Hiện nay cháu N đang ở với anh H, cháu Y đang ở với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Y, đồng ý giao cháu N cho anh H trực tiếp nuôi, không ai có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung, nợ chung: Không có.

Bị đơn anh Ngô Trung H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo phiên họp, thông báo hoãn phiên họp và kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh H vắng mặt không có lý do cũng không có ý kiến về việc chị T xin ly hôn với anh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Thủ tục tố tụng: Chị Trần Thị Cẩm T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Ngô Trung H, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng Dân sự thì đây là quan hệ pháp luật « Tranh chấp ly hôn”. Do bị đơn có hộ khẩu thường trú tại huyện Cai Lậy nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cai Lậy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Chị T có đơn xin xét xử vắng mặt, anh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a, điểm b, khoản 2, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt chị T và anh H.

[2] Quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Cẩm T và anh Ngô Trung H được gia đình tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 76/2013, quyển số 01/2013 do Ủy ban nhân dân xã Lương Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh cấp ngày 27/5/2013 nên là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chị T khai do tính tình không hợp, anh H có quan hệ với người phụ nữ khác bên ngoài nên vợ chồng thường xuyên cãi vã làm cho cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc. Vợ chồng đã được hòa giải nhiều lần nhưng không thể hàn gắn, đoàn tụ nên chị yêu cầu được ly hôn với anh H. Xét thấy, mâu thuẫn giữa vợ chồng chị T và anh H thật sự trầm trọng, mâu thuẩn kéo dài, cuộc sống hôn nhân không đạt được, vì theo lời khai của chị T thì vợ chồng anh chị đã ly thân từ năm 2017 đến nay, trong quá trình giải quyết vụ án chị T cương quyết xin ly hôn, còn anh H thì không có mặt để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng không có ý kiến gì về việc chị T xin ly hôn với anh, điều này chứng tỏ anh chị không còn thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Trần Thị Cẩm T.

[3] Con chung: Có hai cháu Ngô Trung N, sinh ngày 31/7/2013 và Ngô Ngọc Y, sinh ngày 10/9/2015. Khi ly hôn, chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi cháu Ngô Ngọc Y, đồng ý giao cháu Ngô Trung N cho anh H trực tiếp nuôi, không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, hiện tại cháu N đang sống chung với anh H và bà nội, cháu Y đang sống với chị T. Mặt khác, tại bản tự khai cháu N cũng có nguyện vọng được sống với cha nếu cha mẹ ly hôn. Không để xáo trộn cuộc sống của các cháu nên Hội đồng xét xử giao cháu Ngô Trung N cho anh H trực tiếp nuôi, giao cháu Ngô Ngọc Y cho chị T trực tiếp nuôi sẽ đảm bảo quyền lợi của các cháu. Do chưa ai có yêu cầu nên không ai phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

[4] Tài sản chung, nợ chung: Do không ai có yêu cầu, chị T trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Án phí: Chị Trần Thị Cẩm T phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định tại khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[6] Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo qui định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Cẩm T.

1. Quan hệ hôn nhân: Cho chị Trần Thị Cẩm T được ly hôn với anh Ngô Trung H.

2. Con chung: Giao cháu Ngô Trung N, sinh ngày 31/7/2013 cho anh Ngô Trung H trực tiếp nuôi, giao cháu Ngô Ngọc Y, sinh ngày 10/9/2015 cho chị Trần Thị Cẩm T trực tiếp nuôi.

Chị Trần Thị Cẩm T và anh Ngô Trung H có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật.

3. Án phí: Chị Trần Thị Cẩm T phải chịu 300.000đ (Bằng chữ: Ba trăm ngàn đồng) án phí sơ thẩm. Được khấu trừ số tiền đã nộp là 300.000đ (Bằng chữ: Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006050 ngày 17 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Như vậy, chị Trần Thị Cẩm T đã thi hành xong phần án phí.

4. Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại theo trình tự, thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 18/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:18/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về