Bản án về tranh chấp ly hôn số 150/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 150/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 13 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa T hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 107/2022/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 02 năm 2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 128/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 107/2022/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Yến N, sinh năm 1998 (Xin vắng mặt) Địa chỉ: Khu vực 5, thị trấn H, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

Bị đơn: Ông Đặng Minh T, sinh năm 1992 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Khu vực 5, thị trấn H, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ly hôn ngày 08 tháng 02 năm 2022 và những lời khai tiếp theo, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Yến N trình bày: Bà và ông Đặng Minh T chung sống với nhau vào năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn H, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do cuộc sống không phù hợp, bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cãi nhau, không tìm được Tg nói chung trong hôn nhân. Ông bà đã ly thân nhau từ tháng 7 năm 2019 cho đến nay. Nay, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn được nữa nên bà xin ly hôn với ông Đặng Minh T.

Về con chung: Quá trình chung sống, ông bà có một con chung tên Đặng Nguyễn Gia Hân, sinh ngày 11/02/2018. Con hiện đang sống chung với bà. Khi ly hôn, bà xin được quyền nuôi con, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, bà Nguyễn Thị Yến N có đơn đề nghị không T hành hòa giải, Tòa án đã T hành tống đạt thông báo thụ lý, các văn bản tố tụng cần thiết, đã T hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và các thủ tục theo pháp luật quy định nhưng ông Đặng Minh T vẫn vắng mặt, cũng không có văn bản ghi ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị Yến N khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Đặng Minh T, ông T hiện thường trú và có mặt tại khu vực 5, thị trấn H, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An (được Công an thị trấn H xác nhận) nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Yến N xin vắng mặt; bị đơn ông Đặng Minh T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn T hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Yến N và ông Đặng Minh T chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn H, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nên hôn nhân giữa ông bà là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Thấy rằng, trong quá trình chung sống, bà N cho rằng do cuộc sống vợ chồng không phù hợp, bất đồng quan điểm sống, không tìm được Tg nói chung trong hôn nhân, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Mâu thuẫn giữa ông bà cũng không được gia đình hai bên và chính quyền địa phương giải quyết. Đối với ông T, từ khi thụ lý vụ án cho đến nay, mặc dù đã được tống đạt thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng theo quy định, biết được yêu cầu khởi kiện của bà N nhưng ông T không đến Tòa án và cũng không có ý kiến gì phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của bà N. Tại phiên tòa, ông T vẫn vắng mặt, chứng tỏ không có thiện chí để hàn gắn, trong khi vợ chồng mâu thuẫn nên đã ly thân nhau từ năm 2019 cho đến nay. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, đời sống chung vợ chồng của ông bà không thể tiếp tục, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, xét yêu cầu ly hôn của bà N và ông T là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Về con chung và cấp dưỡng: Bà N trình bày bà và ông T chung sống có một con chung tên Nguyễn Gia Hân, sinh ngày 11/02/2018. Khi ly hôn, bà N yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Đối với ông T, dù đã được thông báo về yêu cầu của bà N đối với con chung nhưng ông T vẫn không đến Tòa án, cũng không có văn bản phản hồi ý kiến gửi Tòa án.

Xét thấy, từ khi bà N và ông T xa nhau đến nay, bà N là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Gia Hân, bà vẫn đảm bảo sự phát triển bình thường của con chung. Ngoài ra, con chung Gia Hân là con gái, cần có sự chăm sóc, gần gũi của người mẹ hơn. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng cần tiếp tục giao con chung cho bà N nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Bà N không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên HĐXX không đề cập, xem xét đến.

[5]. Về tài sản chung: Bà N trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; ông T không có văn bản phản hồi ý kiến về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về nợ chung: Bà N trình bày không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; ông T không có văn bản phản hồi ý kiến về nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Yến N phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, 273, 483, Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, 5, 81, 82, 83, và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Yến N đối với ông Đặng Minh T về việc “Ly hôn”.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Yến N được ly hôn với ông Đặng Minh T.

- Về con chung: Bà Nguyễn Thị Yến N được quyền tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Gia Hân, sinh ngày 11/02/2018. Ông Đặng Minh T không phải cấp dưỡng nuôi con vì bà N không yêu cầu. Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc, bên trực tiếp nuôi con không được quyền ngăn cản. Khi cần thiết có thể yêu cầu thay đổi quyền nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con - Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Yến N chịu 300.000đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ nhà nước. Bà N được khấu trừ 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0009646 ngày 08/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An để thi hành.

Án xử sơ thẩm công khai, nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án để xin xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 150/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:150/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về