Bản án về tranh chấp ly hôn số 1256/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1256/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 16 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 130/2022/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 01 năm 2022 về việc tranh chấp: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 256/2022/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 216/2022/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Lưu Thị T, sinh năm 1976; Địa chỉ: Số 214/34 đường Nguyễn Oanh, Phường 17, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. (Có mặt).

2. Bị đơn: Ông Ngô Đức T, sinh năm 1964; trú tại: Số 283/25/3 đường Lê Đức Thọ, Phường 17, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Lưu Thị T trình bày:

Bà và ông Ngô Đức T tự nguyện quen biết và yêu thương nhau từ năm 2004 đến năm 2007 thì tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân Phường 17, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 113 ngày 09 tháng 8 năm 2007. Bà và ông T chung sống không có hạnh phúc, nguyên nhân là do vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, ông T thường xuyên đánh đập tôi có khi phải nhập viện cấp cứu nên cuộc sống gia đình không hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Bà và ông T đã nhiều lần hàn gắn nhưng không đạt kết quả, không giải quyết được mâu thuẫn. Bà và ông T đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Bà nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên khởi kiện yêu cầu:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lưu Thị T yêu cầu ly hôn với ông Ngô Đức T.

Về con chung: Có 01 con chung tên là: Ngô Ngọc Thủy T, sinh ngày 05/3/2008. Hiện nay trẻ T đang sống cùng với ông T nên bà T yêu cầu giao con cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng trẻ T và bà T không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt Thông báo thụ lý vụ án cho ông Ngô Đức T và giấy triệu tập ông T đến Tòa án để ghi nhận ý kiến của ông đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng ông T vắng mặt. Tòa án tiến hành tống đạt Thông báo và giấy triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho ông T. Ông T đều có ký nhận trực tiếp nhưng ông T không đến Tòa án, không có văn bản trình bày ý kiến của ông đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không cung cấp tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và cũng không có ý kiến về các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp cho Tòa án.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn bà Lưu Thị T vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn với ông Ngô Đức T, bà yêu cầu giao con cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên là: Ngô Ngọc Thủy T, sinh ngày 05/3/2008 và bà không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

Bị đơn ông Ngô Đức T vắng mặt không lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, do bị đơn vắng mặt không tham gia phiên tòa nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa:

Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán thực hiện đúng quy định tại Điều 48 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về phiên tòa sơ thẩm. Nguyên đơn thực hiện đúng quy định tại Điều 70, 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn chưa thực hiện đúng quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án: Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của đương sự tại phiên tòa cho thấy, bà T và ông T đã phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm do không tìm được tiếng nói chung không thể giải quyết được, cuộc sống vợ chồng không hòa hợp, không còn quan tâm đến nhau, mâu thuẫn vợ chồng không thể giải quyết, hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Lưu Thị T. Cụ thể: Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của bà Lưu Thị T được ly hôn với ông Ngô Đức T; Về con chung: Giao con chung tên là: Ngô Ngọc Thủy T, sinh ngày 05/3/2008 cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với bà Lưu Thị T cho đến khi có yêu cầu; Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết khi ly hôn nên không xem xét.

Về án phí sơ thẩm thực hiện theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào lời trình bày của đương sự tại phiên tòa, Toà án nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà Lưu Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông Ngô Đức T, đây là quan hệ: “Tranh chấp ly hôn”. Bị đơn cư trú tại quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Ông Ngô Đức T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt ông T.

[3] Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

Hội đồng xét xử nhận thấy: Căn cứ vào Giấy chứng nhận kết hôn số 113 do Ủy ban nhân dân Phường 17, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 09 tháng 8 năm 2007, xác định hôn nhân giữa bà Lưu Thị T và ông Ngô Đức T là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu ly hôn của bà Lưu Thị T, Hội đồng xét xử nhận thấy: Vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc nhau. Bà T trình bày giữa bà và ông T không tìm được tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống nên không có hạnh phúc gia đình, ông T thường xuyên bạo hành vợ, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Bà T và ông T đã nhiều lần hàn gắn để giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Điều này thể hiện quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Về phía ông T , Tòa án đã triệu tập ông T tham gia các phiên hòa giải nhằm tạo điều kiện cho bà T và ông T hàn gắn đoàn tụ, cùng nhau nuôi dạy con chung. Mặc dù ông T ký nhận trực tiếp các văn bản của Tòa án nhưng ông T vẫn không có mặt thể hiện ông T không có thiện chí giải quyết những mâu thuẫn, hàn gắn tình cảm vợ chồng và cũng không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của bà T .

Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T .

Về người trực tiếp nuôi con: Hiện nay trẻ Ngô Ngọc Thủy T, sinh ngày 05/3/2008 đang sinh sống cùng với ông T nên để ổn định tinh thần và cuộc sống của trẻ T, hơn nữa trẻ T có nguyện vọng được sống với ba. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà T , giao cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng trẻ T, bà T không cấp dưỡng nuôi con. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với bà T cho đến khi có yêu cầu.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết khi ly hôn nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[4] Án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà T phải chịu án phí sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ Luật phí và lệ phí;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Lưu Thị T được ly hôn với ông Ngô Đức T (Giấy chứng nhận kết hôn số 113 do Ủy ban nhân dân Phường 17, quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 09 tháng 8 năm 2007 không còn hiệu lực).

Về con chung: Ông Ngô Đức T là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên là: Ngô Ngọc Thủy T, sinh ngày 05/3/2008 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với bà Lưu Thị T cho đến khi có yêu cầu.

Bà Lưu Thị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không ai được cản trở, tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con.

Trên cơ sở lợi ích của con, cha, mẹ, người thân thích; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Khi cần thiết đương sự có quyền yêu cầu thay đổi cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này.

2. Án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng bà Lưu Thị T phải chịu, được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0047634 ngày 26 tháng 01 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà T đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

3. Về quyền kháng cáo: Bà Lưu Thị T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Ngô Đức T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

68
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 1256/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:1256/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về