Bản án về tranh chấp ly hôn số 101/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 101/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/02/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 25 tháng 02 năm 2022, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 18/2022/TLST- HNGĐ ngày 12/01/2022 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 09/02/2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm: 1997; Địa chỉ: Đường B, tổ dân phố Đ, thị trấn L, huyện L, tỉnh L. (Chị H có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Trần Văn L, sinh năm: 1998; Địa chỉ: D16/19 ấp A, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (Anh L có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn ngày 28/9/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án - Nguyên đơn chị Trần Thị H trình bày:

Chị và anh Trần Văn L chung sống với nhau từ năm 2020, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện L, tỉnh L vào ngày 20/7/2020. Trong quá trình chung sống, thời gian đầu hạnh phúc nhưng đến tháng 01/2021 sau khi sinh con và dịch Covid-19 bùng phát thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do kinh tế gia đình khỏng ổn định, giữa chúng tôi không hợp nhau về cách sống và cách nuôi dạy con cái. Đến tháng 6/2021 thì anh L về sinh sống với gia đình tại Thành phố Hồ Chí Minh. Vợ chồng anh chị sống ly thân từ tháng 6/2021 cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng khó hàn gắn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Trần Văn L.

Về con chung, chị và anh L chung sống có một con chung tên Trần Hàn Thiên N, sinh ngày 08/01/2021. Hiện cháu N đang ở với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu N, không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Về tài sản chung, chị xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung, chị xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 20/01/2022, bị đơn anh Trần Văn L trình bày:

Anh và chị Trần Thị H chung sống với nhau từ năm 2020, do tự tìm hiểu,, có đăng ký kết hôn vào ngày 20/7/2020 tại Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện L, tỉnh L. Thời gian đầu, anh chị chung sống với nhau cũng bình thường, không có gì xảy ra nhưng đến tháng 6/2021, anh chị đã xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do kinh tế gia đình không được ổn định, có xích mích trong lời nói, sự tin tưởng dành cho nhau không còn như trước, dẫn đến sống ly thân từ tháng 6/2021 cho đến nay. Mặc dù, anh L đã cố gắng nhiều lần hòa giải hàn gắn tình cảm với chị H nhưng chị H vẫn kiên quyết ly hôn. Vì vậy, nay chị H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh thì anh cũng đồng ý ly hôn để trả tự do cho chị H.

Về con chung, anh và chị H chung sống có một con chung tên Trần Hàn Thiên N, sinh ngày 08/01/2021. Hiện cháu N đang ở với chị H. Do hiện nay con còn nhỏ nên anh đồng ý giao con chung cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng, mặc dù chị H không yêu cầu anh cấp dưỡng nuôi con nhưng với trách nhiệm làm cha anh sẽ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng), bắt đầu thực hiện từ ngày 10/02/2022. Anh mong muốn chị H chăm con ổn định cũng như tạo điều kiện để anh thăm nom, chăm sóc con chung nhằm mục đích bồi dưỡng tình cảm cha con.

Về tài sản chung, anh xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung, anh xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Nguyên đơn chị Trần Thị H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với bị đơn anh Trần Văn L. Bị đơn có nơi cư trú tại D16/19 ấp 4, xã T, huyện B, vì vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh.

[3] Về sự vắng mặt của nguyên đơn và bị đơn: Do nguyên đơn chị Trần Thị H và bị đơn anh Trần Văn L có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử vắng mặt các đương sự này theo quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[4] Về hôn nhân: Theo giấy chứng nhận kết hôn số 38 do Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện L, tỉnh L cấp ngày 20/7/2020 có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh L là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 8, Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Theo trình bày của chị H và anh L thì nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do kinh tế gia đình không ổn định, cách sống không còn hợp nhau, vợ chồng sống ly thân từ tháng 6/2021 cho đến nay, tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn. Vì vậy, chị H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh L.

[6] Còn anh L xác định do chị H vẫn kiên quyết ly hôn nên anh L cũng đồng ý ly hôn với chị H.

[7] Hội đồng xét xử xét thấy, theo sự xác nhận của chị H và anh L thì giữa vợ chồng có xảy ra mẫu thuẫn về kinh tế gia đình, bất đồng quan điểm sống, dẫn đến cả hai sống ly thân từ tháng 6/2021 cho đến nay. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét thấy mục đích hôn nhân giữa chị H và anh L đã không đạt được, đời sống chung giữa hai vợ chồng không thể tiếp tục kéo dài. Do đó, chị H yêu cầu ly hôn đối với anh L là hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 51 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về con chung: Chị H và anh L cùng xác nhận, anh chị chung sống có một con chung tên Trần Hàn Thiên N, sinh ngày 08/01/2021. Hiện cháu N đang ở với chị H. Khi ly hôn chị H có nguyện vọng tiếp tục nuôi dưỡng cháu N và anh L cũng đồng ý do con còn nhỏ.

[8.1] Về quyền nuôi con sau khi ly hôn, Hội đồng xét xử nhận định: theo quy định khoản 1, khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử xem xét khả năng của các đương sự về việc đảm bảo cuộc sống ổn định, tinh thần cho con sau khi ly hôn nên Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục giao cháu Trần Hàn Thiên N cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

[8.2] Về cấp dưỡng: Mặc dù, chị H không có yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con, tuy nhiên xét thấy anh L có nguyện vọng sẽ cấp dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 110 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử xem xét giải quyết cấp dưỡng theo ý kiến của anh L.

[9] Về tài sản chung: chị H và anh L xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[10] Về nợ chung: chị H và anh L xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

[11] Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn; còn bị đơn anh L phải chịu án phí đối với nghĩa vụ cấp dưỡng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 179, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 9, Điều 11 và Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;

Căn cứ Điều 8, Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 69, Điều 71, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 110 và Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị H đối với bị đơn anh Trần Văn L về việc tranh chấp ly hôn.

1.1 Về hôn nhân: Chị Trần Thị H được ly hôn với anh Trần Văn L. Quan hệ hôn nhân giữa chị Trần Thị H và anh Trần Văn L chấm dứt cũng như giấy chứng nhận kết hôn số 38 do Ủy ban nhân dân thị trấn L, huyện L, tỉnh L cấp ngày 20/7/2020 không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

1.2 Về con chung: Chị Trần Thị H và anh Trần Văn L cùng xác nhận, anh chị chung sống có một con chung tên Trần Hàn Thiên N, sinh ngày 08/01/2021. Giao con chung tên Trần Hàn Thiên N cho chị Trần Thị H tiếp tục nuôi dưỡng.

Anh Trần Văn L có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền cản trở, vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con sau này theo quy định tại Điều 83, Điều 84 và Điều 116 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó theo quy định tại Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Anh Trần Văn L có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi cháu Trần Hàn Thiên N mỗi tháng 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng), thực hiện từ ngày 10/02/2022 cho đến khi cháu N thành niên hoặc nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt theo quy định.

Các bên đương sự thực hiện việc cấp dưỡng tại cơ quan thi hành án có thẩm quyền.

Trường hợp anh Trần Văn L không thực hiện việc cấp dưỡng theo quyết định thì chị Trần Thị H có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành việc anh Trần Văn L thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Kể từ khi chị Trần Thị H có đơn yêu cầu thi hành án thì anh Trần Văn L còn phải trả lãi đối với số tiền chậm thực hiện tương ứng với thời gian chậm thực hiện theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

1.3 Về tài sản chung: Chị Trần Thị H và anh Trần Văn L xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

1.4 Về nợ chung: Chị Trần Thị H và anh Trần Văn L xác nhận không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

2. Về án phí:

- Nguyên đơn chị Trần Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mà chị H đã nộp theo biên lai thu số AA/2021/0040358 ngày 28/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh. Chị H đã nộp đầy đủ án phí.

- Bị đơn anh Trần Văn L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí nghĩa vụ cấp dưỡng, Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Trần Thị H và bị đơn anh Trần Văn L vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 101/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:101/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về