Bản án về tranh chấp ly hôn số 09/2020/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 09/2020/HNGĐ-PT NGÀY 07/01/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 07 tháng 01 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình phúc thẩm thụ lý số 133/2019/TLPT-HNGĐ ngày 13 tháng 11 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn”.

Do bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 864/2019/HNGĐ-ST ngày 02 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận P, Thành phố Hồ Chí Minh bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 6057/2019/QĐ-PT ngày 12 tháng 12 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Trần Văn Đ, sinh năm 1984. (Có mặt) Địa chỉ: Số 77/8 đường C, phường T, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Bà Lê Kiều H, sinh năm 1988. (Có mặt) Địa chỉ: Số 77/8 đường C, phường T, quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người kháng cáo: Nguyên đơn - ông Trần Văn Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện, Bản tự khai, nguyên đơn ông Trần Văn Đ trình bày:

Ông Trần Văn Đ và bà Lê Kiều H đăng ký kết hôn tại xã H, huyện C, tỉnh N vào năm 2011 nhưng không chung sống vợ chồng vì thời điểm này bà H đang đi du học ở nước ngoài. Đến năm 2014, vợ chồng mới tổ chức lễ cưới, chính thức chung sống vợ chồng cùng nhau.

Về mâu thuẫn vợ chồng: Ông Đ nhận thấy giữa ông Đ và bà H không hợp tính tình, lối sống, quan điểm và cách nuôi dạy, chăm sóc con cái. Do đặc thù công việc, ông Đ đi làm từ sáng đến tối mới về nhà nhưng giữa vợ chồng vẫn không thể nói chuyện, trao đổi cùng nhau. Ông Đ cho rằng từ tháng 6/2016 đến nay, giữa ông Đ và bà H tuy sống cùng nhà nhưng vợ chồng đã ly thân, không có việc quan hệ vợ chồng. Ông Đ nhận thấy cuộc sống chung không hạnh phúc nên yêu cầu được ly hôn với bà H.

Về con chung: Có 01 (Một) con chung tên Trần Thảo N, sinh ngày 25/6/2015. Ông Đ đồng ý giao con chung cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng, ông Đ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000đ (Hai triệu đồng) cho đến khi con chung đến tuổi trưởng thành.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn bà Lê Kiều H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà H xác nhận lời trình bày của ông Đ về quá trình kết hôn là đúng. Bà H xác định giữa bà H và ông Đ không quan hệ vợ chồng từ sau khi sinh con là do bà H đang chữa trị bệnh nên khó có thể đáp ứng nhu cầu của ông Đ. Bà H nhận thấy gia đình vẫn bình thường, không có mâu thuẫn nào gay gắt dẫn đến phải ly hôn và con chung còn nhỏ, bà H muốn con có gia đình đủ cha mẹ nên không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của ông Đ.

Về con chung: Có 01 (Một) con chung tên Trần Thảo N, sinh ngày 25/6/2015. Nếu phải ly hôn, bà H yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung, yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 4.000.000đ (Bốn triệu đồng) cho đến khi con chung đến tuổi trưởng thành.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản án sơ thẩm số 864/2019/HNGĐ-ST ngày 02/10/2019 của Tòa án nhân dân quận P, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Trần Văn Đ:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Văn Đ được ly hôn bà Lê Kiều H.

Giấy chứng nhận kết hôn số 20, quyển số 01/2011 ngày 11/3/2011 của Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh N cấp cho các đương sự không còn giá trị pháp lý kể từ ngày Bản án này có hiệu lực pháp luật.

- Về con chung: Giao con chung tên Trần Thảo N, sinh ngày 25/6/2015 cho bà Lê Kiều H trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Đ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 4.000.000đ (Bốn triệu đồng), bắt đầu thực hiện kể từ khi án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đến tuổi trưởng thành. Kể từ ngày người trực tiếp nuôi dưỡng con chung có đơn yêu cầu thi hành án tiền cấp dưỡng, nếu người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung không thi hành thì hàng tháng phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành theo mức lãi suất quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Ông Trần Văn Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Bà Lê Kiều H cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở việc ông Trần Văn Đ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó.

Khi có lý do chính đáng, mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng do các bên thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.

Vì cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức (theo quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này. Giành quyền khởi kiện tranh chấp về tài sản chung và nợ chung cho các đương sự trong vụ án khác.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền yêu cầu thi hành án, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 16/10/2019, ông Trần Văn Đ kháng cáo một phần Bản án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét lại mức cấp dưỡng nuôi con của Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 864/2019/HNGĐ-ST ngày 02/10/2019 của Tòa án nhân dân quận P, Thành phố Hồ Chí Minh, ông Trần Văn Đ yêu cầu cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm ngàn đồng).

Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Trần Văn Đ và bà Lê Kiều H tự nguyện thỏa thuận về mức cấp dưỡng nuôi con chung, cụ thể: Ông Trần Văn Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 3.200.000đ (Ba triệu hai trăm ngàn đồng), thi hành ngay khi án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung Trần Thảo N tròn 18 tuổi.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử phúc thẩm và các đương sự thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về hình thức đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của ông Trần Văn Đ còn trong thời hạn luật định nên hợp lệ.

Về nội dung kháng cáo: Tại phiên tòa các đương sự ông Trần Văn Đ, bà Lê Kiều H đã tự nguyện thỏa thuận việc giải quyết nội dung kháng cáo, xét thấy sự thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 300, Khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 864/2019/HNGĐ-ST ngày 02 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

I. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Trần Văn Đ làm trong hạn luật định và ông Đ đã thực hiện nghĩa vụ của người kháng cáo phù hợp với các quy định tại Điều 271, 272, 273 và Điều 276 Bộ luật Tố tụng dân sự nên được chấp nhận xem xét theo trình tự phúc thẩm.

II. Về nội dung:

Xem xét yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Trần Văn Đ và phần trình bày của các bên đương sự tại phiên tòa phúc thẩm, kiểm tra trình tự, thủ tục tố tụng tại cấp sơ thẩm khi thụ lý giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 20, quyển số 01/2011 ngày 11/3/2011 của Ủy ban nhân dân xã H, huyện C, tỉnh N cấp cho ông Trần Văn Đ và bà Lê Kiều H, có cơ sở xác định hôn nhân giữa ông Trần Văn Đ và bà Lê Kiều H là hôn nhân hợp pháp. Cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Trần Văn Đ đối với bà Lê Kiều H. Các đương sự không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên phần này của Bản án sơ thẩm phát sinh hiệu lực pháp luật.

[2] Về con chung và người trực tiếp nuôi con: Cấp sơ thẩm giao con chung tên Trần Thảo N, sinh ngày 25/6/2015 cho bà Lê Kiều H trực tiếp nuôi dưỡng. Các đương sự không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên phần này của Bản án sơ thẩm phát sinh hiệu lực pháp luật.

[3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không tranh chấp trong vụ án, Cấp sơ thẩm chấp nhận giành quyền khởi kiện cho các đương sự trong vụ án khác. Các đương sự không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên phần này của Bản án sơ thẩm phát sinh hiệu lực pháp luật.

[4] Về mức cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa phúc thẩm, các đương sự ông Trần Văn Đ và bà Lê Kiều H tự nguyện thỏa thuận được với nhau việc giải quyết mức cấp dưỡng nuôi con, cụ thể: Ông Trần Văn Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho trẻ Trần Thảo N mỗi tháng 3.200.000đ (Ba triệu hai trăm ngàn đồng), thi hành ngay khi án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung Trần Thảo N tròn 18 tuổi. Xét thấy, sự thỏa thuận của các đương sự tại phiên tòa không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội; căn cứ Điều 300, Khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, sửa Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 864/2019/HNGĐ-ST ngày 02 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

[5] Về án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm: Do sửa Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 864/2019/HNGĐ-ST ngày 02 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận P, Thành phố Hồ Chí Minh nên ông Trần Văn Đ không phải chịu.

[6] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn ông Trần Văn Đ phải chịu.

[7] Về án phí dân sự thẩm (Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con): Ông Trần Văn Đ phải chịu.

Xét ý kiến phát biểu đề nghị về quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa, như nhận định nêu trên, xét thấy có cơ sở nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Khoản 2 Điều 148, Điều 271, 272, 273, 276, Điều 300, Khoản 2 Điều 308, Khoản 2 Điều 309, Điều 313 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

- Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

I. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông Trần Văn Đ.

II. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự; Sửa Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 864/2019/HNGĐ-ST ngày 02 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân quận P, Thành phố Hồ Chí Minh như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Trần Văn Đ ly hôn bà Lê Kiều H.

- Về con chung: Có 01 (Một) con chung tên Trần Thảo N, sinh ngày 25/6/2015; Giao con chung Trần Thảo N cho bà Lê Kiều H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ông Trần Văn Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 3.200.000đ (Ba triệu hai trăm ngàn đồng), thi hành ngay khi án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung Trần Thảo N tròn 18 tuổi. Việc giao nhận con chung tên Trần Thảo N và tiền cấp dưỡng nuôi con do hai bên đương sự tự thi hành hoặc yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành.

Kể từ ngày bà Lê Kiều H có đơn yêu cầu thi hành án tiền cấp dưỡng nuôi con, nếu ông Trần Văn Đ chưa hoặc không thi hành thì hàng tháng phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành theo mức lãi suất quy định tại Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức đóng góp cho việc nuôi dưỡng, giáo dục con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

III. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Ông Trần Văn Đ phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được cấn trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) ông Trần Văn Đ đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0012894 ngày 18/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

IV. Án phí dân sự sơ thẩm (Về cấp dưỡng nuôi con): Ông Trần Văn Đ phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

V. Án phí hôn nhân gia đình phúc thẩm: Ông Trần Văn Đ không phải chịu. Hoàn trả cho ông Trần Văn Đ 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0012930 ngày 16/10/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận P, Thành phố Hồ Chí Minh.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được áp dụng theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

94
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 09/2020/HNGĐ-PT

Số hiệu:09/2020/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/01/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về