Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 80/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 80/2022/HNGĐ-ST NGÀY 07/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 07 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 134/2022/TLST-HNGĐ, ngày 31 tháng 3 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:147/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 25 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 144/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 18 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Trần Thị H, sinh năm 1990 Cư trú: ấp M, xã H, thành phố L, tỉnh An Giang. (Vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt)

- Bị đơn: Ông Phạm Văn T, sinh năm 1989 Cư trú: khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình giải quyết nguyên đơn bà Trần Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông T tự nguyện tìm hiểu sau đó tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã H, thành phố L, tỉnh An Giang và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 41, ngày 21/3/2016. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng sau đó thì bắt đầu xảy ra mâu thuẫn, có nhiều bất đồng về quan điểm sống, thường xuyên cãi vã, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, vợ chồng đã ly thân từ đó đến nay. Nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân đã trầm trọng không thể hàn gắn và kéo dài nên bà H yêu cầu được ly hôn với ông T.

- Về con chung: Có 02 (hai) con chung tên Phạm Thị Nhã H1, sinh ngày 07/8/2015 và Phạm Đức T1, sinh ngày 21/5/2018. Hiện 02 con đang sống cùng bà H. Sau khi ly hôn, bà H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng hai con chung, không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, mặc dù được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông Phạm Văn T vắng mặt, không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu ly hôn của bà H. Tại phiên tòa, ông T tiếp tục vắng mặt không lý do.

Đi diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đảm bảo theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Trần Thị H; về con chung, giao con chung Phạm Thị Nhã H1 và Phạm Đức T1 cho bà H tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng, tài sản chung và nợ chung không yêu cầu giải quyết nên không xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Trần Thị H khởi kiện tranh chấp ly hôn với ông Phạm Văn T. Theo phiếu xác minh ngày 31/3/2022 do Công an phường B cung cấp ông T cư trú tại phường B, thành phố L, tỉnh An Giang, nên Tòa án nhân dân thành phố L thụ lý giải quyết là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bà H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, ông T được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về hôn nhân: Bà H và ông T tự nguyện tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật tại Ủy ban nhân dân xã H, thành phố L, tỉnh An Giang ngày 21/3/2016 nên được pháp luật công nhận là vợ chồng theo quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Quá trình giải quyết, bà H xác định không còn tình cảm với ông T, vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng nên bà yêu cầu ly hôn. Ông T vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết, không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu của bà H về tranh chấp ly hôn, con chung, tài sản chung và nợ chung; không cung cấp, giao nộp chứng cứ. Tại phiên tòa, ông T tiếp tục vắng mặt không lý do, thể hiện ông T không có thiện chí hòa giải hàn gắn tình cảm vợ chồng, chứng tỏ tình trạng hôn nhân của ông bà đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu tiếp tục duy trì sẽ không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H.

[3] Về con chung: Có 02 (hai) con chung tên Phạm Thị Nhã H1, sinh ngày 07/8/2015 và Phạm Đức T1, sinh ngày 21/5/2018. Xét thấy, hiện các cháu H1 và T1 đang sống cùng bà H, nên để ổn định cuộc sống và đảm bảo cho các cháu phát triển tốt về mọi mặt khi bà H và ông T ly hôn, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu được tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung của bà H.

Về cấp dưỡng nuôi con, cha mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, đây là quyền lợi của con chưa thành niên. Tuy nhiên, bà H là người trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn, không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Bà H cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung. Việc nuôi con không cố định.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ông T không có văn bản trình bày ý kiến về tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử chưa giải quyết. Đương sự có tranh chấp, khởi kiện vụ kiện khác theo quy định.

[5] Về án phí: Bà Trần Thị H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị H.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị H được ly hôn ông Phạm Văn T.

- Về con chung: Có 02 (hai) con chung tên Phạm Thị Nhã H1, sinh ngày 07/8/2015 và Phạm Đức T1, sinh ngày 21/5/2018.

Bà H được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng hai con chung. Ông T không phải cấp dưỡng nuôi con chung, do bà H không yêu cầu.

Bà H cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Việc nuôi con không cố định.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

- Về án phí: Bà Trần Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001131, ngày 31/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L. Bà H đã nộp đủ tiền án phí.

Bà Trần Thị H và ông Phạm Văn T được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 80/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:80/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về