Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 65/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CAI LẬY - TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 65/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 15 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 127/2022/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2022 về việc tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự.

Nguyên đơn: chị A, sinh năm 2000;

Địa chỉ: ấp A1, xã A2, thị xã A3, tỉnh Tiền Giang.

Bị đơn: anh B, sinh năm 1997;

Địa chỉ: ấp B1, xã B2 thị xã A3, tỉnh Tiền Giang.

(Chị A có đơn xin vắng mặt, anh B vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 25/3/2022, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: chị và anh B do quen biết và được gia đình hai bên đồng ý, chị và anh B tổ chức đám cưới vào năm 2017, có đăng ký kết hôn tại UBND xã B2, thị xã A3, tỉnh Tiền Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 84 ngày 20/9/2018. Quá trình chung sống hạnh phúc được một thời gian thì đến cuối năm 2020 phát sinh mâu thuẫn, thường hay cãi nhau. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hợp nhau, anh B vô tâm không quan tâm đến vợ con, anh B thường xuyên đi chơi, không phụ chị lo kinh tế trong nhà. Chị và anh B đã ly thân và cắt đứt quan hệ vợ chồng từ tháng 02/2022 cho đến nay.

Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên chị làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh B.

Về con chung: có 01 con chung tên E, sinh ngày 23/7/2018. Khi ly hôn chị A yêu cầu nuôi dưỡng con chung không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh B họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Quyết định hoãn phiên tòa và triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh B vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

- Trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa hôm nay: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đầy đủ các thủ tục theo pháp luật tố tụng quy định, nhũng người tham gia tố tụng chấp hành tốt quy định của pháp luật nên không có ý kiến gì.

- Về quan điểm giải quyết vụ án đề nghị hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị A cho chị A được ly hôn với anh B.

- Về con chung: Tiếp tục giao cháu E, sinh ngày 23/7/2018 cho chị A tiếp tục nuôi dưỡng, anh B không phải cấp dưỡng nuôi con do chị A chưa có yêu cầu. Anh B được quyền thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được quyền cản trở.

- Về tài sản chung: Chị A trình bày không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh B thì không có ý kiến gì về tài sản chung nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét để giải quyết.

- Về nợ chung: Chị A trình bày không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh B thì không có ý kiến gì về nợ chung nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét để giải quyết.

Về án phí: chị A phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa nguyên đơn chị A có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn anh B vắng mặt không lý do. Căn cứ khoản 1, 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử trong trường hợp vắng mặt nguyên đơn và bị đơn tại phiên tòa là phù hợp.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn xác định quan hệ tranh chấp “Ly hôn, nuôi con”, bị đơn anh B có hộ khẩu thường trú tại ấp B1, xã B2, thị xã A3, tỉnh Tiền Giang căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang.

[3] Về quan hệ hôn nhân: chị A và anh B về chung sống với nhau vào năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B2, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 84 ngày 20/9/2018 nên đây là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống hạnh phúc một thời gian thì đến cuối năm 2020 phát sinh mâu thuẫn, thường hay cãi nhau. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hợp nhau, anh B vô tâm không quan tâm đến vợ con, anh B thường xuyên đi chơi, không phụ chị lo kinh tế trong nhà. Chị và anh B đã ly thân và cắt đứt quan hệ vợ chồng từ tháng 02/2022 cho đến nay. Hội đồng xét xử xét thấy: sau khi chị A và anh B xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2017, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì đến cuối năm 2020 phát sinh mâu thuẫn. Từ lúc ly thân cho đến nay thì chị A và anh B không còn liên lạc với nhau. Sau khi tòa án thụ lý vụ án đã tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng cho anh B để thông báo về yêu cầu ly hôn của chị A, nhưng anh B không có ý kiến gì; không có mặt tham gia các phiên hòa giải và phiên tòa, anh B không thể hiện được ý kiến, cũng không đưa ra biện pháp cụ thể nào để hàn gắn lại mối quan hệ vợ chồng. Việc anh B không đến trong suốt quá trình tòa án giải quyết vụ án là anh B đã mặc nhiên từ bỏ cơ hội để vợ chồng hàn gắn, đoàn tụ với nhau. Mặc dù, Tòa án đã động viên nhưng chị A vẫn kiên quyết yêu cầu ly hôn với anh B. Từ những tình tiết trên, đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử nhận định tình trạng hôn nhân giữa chị A, anh B đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị A là phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về con chung: Có 01 con chung tên E, sinh ngày 23/7/2018. Khi ly hôn chị A yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con. Xét, từ khi chị A và anh B sống ly thân đến nay con chung tên E do chị A trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đã ổn định cuộc sống và đảm bảo tốt về mọi mặt, sau khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến nay thì anh B cũng không đến nên coi như anh đã từ bỏ quyền của mình đối với yêu cầu về nuôi dưỡng con chung. Do đó, để ổn định cuộc sống cho cháu E, nên giao cháu E cho chị A chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Chị A không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Chị A trình bày không có nên không yêu cầu Tòa án giả quyết. Anh B thì không có ý kiến gì về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét để giải quyết.

[6] Về nợ chung: Chị A trình bày không có nên không yêu cầu Tòa án giả quyết. Anh B thì không có ý kiến gì về nợ chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét để giải quyết.

[7] Về án phí: Buộc chị A phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định tại Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, 3 Điều 228; Điều 271; Điều 272; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị A được ly hôn với anh B.

2. Về con chung: Giao cháu E, sinh ngày 23/7/2018 cho chị A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh B không phải cấp dưỡng nuôi con do chị A chưa có yêu cầu.

Anh B có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị A phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà chị A đã nộp theo biên lai thu số 0002392 ngày 14/3/2022 của Chi cục Thi hành án Dân sự thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang nên xem như chị A đã nộp xong tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị A và anh B có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 65/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:65/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Cai Lậy - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về