Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 50/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 50/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 30 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 47/2022/TLST - HNGĐ ngày 15 tháng 02 năm 2022 về việc “Ly hôn và nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2022/QĐST-HNGĐ ngày 23/5/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 36/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 09/6/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1982 (có mặt).

Bị đơn: Ông Tiêu Anh C, sinh năm 1982 (vắng mặt).

Cùng nơi cư trú: Thôn L, xã A, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn bà Nguyễn Thị L trình bày:

Về hôn nhân: Bà với ông Tiêu Anh C tự nguyện tìm hiểu và kết hôn với nhau 2007, có đến Ủy ban nhân dân phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa làm thủ đăng ký kết hôn vào năm 2007.

Qúa trình chung sống thời gian đầu hạnh phúc, nhưng đến năm 2020 thì giữa bà với ông C xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông C có mối quan hệ với người phụ nữ khác, ông C còn chụp ảnh với người phụ nữ đó gửi cho bà, mỗi lần bà nói thì ông C chữi mắng và đánh đập bà, nhưng vì các con, bà đã cố gắng khuyên nhủ ông C nhưng ông C không nghe, mà bỏ nhà đi sống chung với người phụ nữ khác.

Hiện tại bà với ông C đã sống ly thân từ năm 2021 cho đến nay, không quan tâm đến nhau.

Nay bà thấy không còn tình cảm với ông Tiêu Anh C, nên yêu cầu được ly hôn với ông Tiêu Anh C.

Về con chung: Bà với ông Tiêu Anh C sống với nhau có 02 con chung tên Tiêu Ngọc A, sinh ngày 27-5-2008 và Tiêu Anh K, sinh ngày 02-06-2013. Nếu ly hôn bà yêu cầu được nuôi các con chung và tôi không yêu cầu ông Tiêu Anh C cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản và nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, Bị đơn ông Tiêu Anh C vắng mặt không có lý do dù đã được Tòa án niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng:

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N phát biểu ý kiến: Về thủ tục tố tụng: Thống nhất về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử (Hội đồng xét xử được viết tắt là HĐXX). Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước khi HĐXX nghị án, đều đảm bảo đúng theo quy định tại các Điều 70, 71, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với bị đơn, Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bị đơn vắng mặt không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt bị đơn.

Về nội dung vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự. Các điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị L. Cho bà Nguyễn Thị L được ly hôn với ông Tiêu Anh C, giao 02 con chung tên Tiêu Ngọc A, sinh ngày 27-5-2008 và Tiêu Anh K, sinh ngày 02-06-2013 cho bà Nguyễn Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, ông Tiêu Anh C không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Buộc bà Nguyễn Thị L phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn trong vụ án, HĐXX xác định: Quan hệ pháp luật là “Tranh chấp Ly hôn, nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; Bị đơn hiện đang cư trú tại thôn Long Bình 1, xã A, huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện N.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ kiện và tại phiên tòa hôm nay ông Tiêu Anh C vắng mặt không có lý do, mặc dù Tòa án đã tống đạt, niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt ông Tiêu Anh C.

[3]. Về nội dung vụ án:

[3.1]. Về quan hệ hôn nhân: Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa xác định được bà Nguyễn Thị L và ông Tiêu Anh C kết hôn năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Vạn Thắng, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa theo giấy chứng nhận kết hôn số 85 ngày 13-11-2007. Do đó, hôn nhân giữa bà Nguyễn Thị L và ông Tiêu Anh C là hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay, bà Nguyễn Thị L vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn ông Tiêu Anh C, vì tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn gay gắt, trầm trọng, vợ chồng không còn quan tâm nhau, tình cảm vợ chồng đã hết. Vì vậy, bà yêu cầu được ly hôn với ông Tiêu Anh C. Đối với bị đơn ông Tiêu Anh C dù đã được Tòa án tống đạt, niêm yết hợp lệ, các văn bản tố tụng nhiều lần theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng vẫn cố tình không đến. Bị đơn ông Tiêu Anh C vắng mặt xem như từ bỏ quyền và L ích hợp pháp của mình, chứng tỏ yêu cầu khởi kiện ly hôn và lời khai của bà Nguyễn Thị L là có căn cứ. Hội đồng xét xử thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Nguyễn Thị L và ông Tiêu Anh C đã thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm vợ chồng đã hết, hiện đã sống ly thân, không quan tâm đến nhau, nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị L là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.2]. Về con chung: Bà Nguyễn Thị L trình bày bà với ông Tiêu Anh C sống với nhau có 02 con chung tên Tiêu Ngọc A, sinh ngày 27-5-2008 và Tiêu Anh K, sinh ngày 02-06-2013, hiện con chung đang sống với bà Nguyễn Thị L. Bà Nguyễn Thị L yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Xét về yêu cầu trực tiếp nuôi con của Nguyễn Thị L, Hội đồng xét xử xét thấy: Bà Nguyễn Thị L là người trực tiếp chăm sóc con chung từ nhỏ đến nay chu đáo, con chung phát triển bình thường và cũng phù hợp với nguyện vọng của con chung đã trên 07 tuổi, nguyện vọng được ở với mẹ, vì vậy phải tôn trọng nguyện vọng của con chung, vì vậy nên giao 02 con chung tên Tiêu Ngọc A, sinh ngày 27-5-2008 và Tiêu Anh K, sinh ngày 02-06-2013 cho bà Nguyễn Thị L được trực tiếp nuôi dưỡng, ông Tiêu Anh C không cấp dưỡng nuôi con chung do bà Nguyễn Thị L không yêu cầu, là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

[3.3]. Về tài sản, nợ chung: Tự thỏa Thuận, nên Hội đồng xét xử không xét đến.

[4]. Về án phí: Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.

[5]. Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát huyện N tại phiên tòa hôm nay là có căn cứ và đúng pháp luật, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, nuôi con” của nguyên đơn bà Nguyễn Thị L. Bà Nguyễn Thị L được ly hôn với ông Tiêu Anh C.

2. Về con chung: Giao 02 con chung Tiêu Ngọc A, sinh ngày 27-5-2008 và Tiêu Anh K, sinh ngày 02-06-2013 cho bà Nguyễn Thị L là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. (Hiện con chung đang sống với bà Nguyễn Thị L).

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí Tòa án bà Nguyễn Thị L đã nộp theo biên lai thu tiền số 0002308 ngày 15-02-2022 của Chi Cục Thi hành án Dân sự huyện N, tỉnh Ninh Thuận. Bà Nguyễn Thị L đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt nguyên đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Đối với bị đơn vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 50/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:50/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ninh Sơn - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về