Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 42/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀ BÌNH, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 42/2022/HNGĐ-ST NGÀY 11/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 11 tháng 07 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 43/2022/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 02 năm 2022 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2022/QĐXX-ST ngày 07 tháng 06 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2022/QĐST- DS ngày 23 tháng 06 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Trương Thị N, sinh năm 1982 (Có đơn xin vắng mặt);

Địa chỉ: ấp 37,xã MD, huyện HB, tỉnh BL.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Tấn P, sinh năm 1981 (vắng mặt);

Địa chỉ: ấp 37,xã MD, huyện HB, tỉnh BL .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 07 tháng 02 năm 2022 nguyên đơn là chị Trương Thị N trình bày: Chị N và anh Nguyễn Tấn P xây dựng hôn nhân và gia đình vào ngày 30/07/2016, có tổ chức lễ cưới theo P tục tập quán của địa phương, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Minh Diệu, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu theo sổ đăng ký hôn nhân và gia đình số 94/2016 ngày 30/07/2016. Quá trình chung sống chị N và anh P có 02 người con chung tên: Nguyễn Vũ S sinh ngày 12/11/2012 và Nguyễn Tuấn D, sinh ngày 10/06/2016, hiện cháu S, cháu D đang sống với anh P. Vợ chồng chị N không có tạo lập gì về tài sản chung và không có nợ chung.

Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị N với anh P là do bất đồng quan điểm sống, hàng ngày thường xuyên xảy ra xung đột, cải vã nhau dẫn đến cuộc sống chung của vợ chồng không có hạnh phúc và vợ chồng đã sống ly thân với nhau khoảng 04 tháng nay.

Nay chị N yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Tấn P và đồng ý giao cháu S, cháu D cho anh P chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và chị N không đồng ý cấp dưỡng nuôi con. Ngoài ra, chị N không còn ý kiến trình bày gì thêm.

Riêng anh Nguyễn Tấn P không có lời trình bày tại Tòa án. Tuy nhiên, Tòa án có giao Thông báo về việc thụ lý vụ án số 43/TB-TLVA ngày 15 tháng 02 năm 2022, giải thích quyền và nghĩa vụ cho anh P khi nhận văn bản của Tòa án. Nhưng anh P không nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của chị N là nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ kèm theo. Ngoài ra, Tòa án cũng giao Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải lần 1 và lần 2 cho anh P nhưng anh P không đến dự phiên hòa giải nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Vì vậy, theo quy định pháp luật nếu bị đơn không cung cấp, tài liệu, chứng cứ cũng như ý kiến của mình thì Tòa án căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ để giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu.

* Về thủ tục tố tụng: Quá trình từ khi thụ lý đến khi xét xử vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

* Về nội dung đề xuất: Căn cứ các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ các Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

* Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trương Thị N đối với anh Nguyễn Tấn P. Về con chung, giao cháu Nguyễn Vũ S, sinh ngày 12/11/2012 và Nguyễn Tuấn D, sinh ngày 10/06/2016 cho anh P tiếp tục, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị N chưa phải cấp dưỡng nuôi con do anh P chưa yêu cầu, chị N được quyền thăm nom con chung không ai được quyền cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không đặc ra xem xét.

4. Án phí hôn nhân và gia đình: Chị Trương Thị N phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp ly hôn giữa nguyên đơn là chị Trương Thị N với bị đơn là anh Nguyễn Tấn P theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu.

Tại phiên toà, chị N và anh P đều vắng mặt. Quá trình giải quyết vụ án, chị N có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Do đó, căn cứ khoản 1 và 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2]. Về nội dung vụ án:

Về hôn nhân: Chị N và anh P xây dựng hôn nhân và gia đình trên cơ sở tự nguyện và có tổ chức lễ cưới theo P tục tập quán địa phương và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Minh Diệu, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu nên có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa chị N với anh P là hợp pháp. Xét về nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị N với anh P, quá trình giải quyết vụ án thấy rằng cuộc sống chung của vợ chồng chị N và anh P thường xuyên cự cãi do bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn kéo dài, ly thân 04 tháng nay. Trong thời gian sống ly thân chị N và anh P không tìm đến nhau để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều này cho thấy tình trạng hôn nhân giữa chị N anh P là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N đối anh P.

[3]. Về quan hệ con chung: Quá trình chung sống với nhau chị N và anh P có 02 người con chung tên Nguyễn Vũ S, sinh ngày 12/11/2012, Nguyễn Tuấn D, sinh ngày 10/06/2016, hiện tại cháu S, cháu D đang sống cùng với anh P, Chị N không yêu cầu nuôi con, chị N đồng ý giao cháu S và cháu D cho anh P nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Xét thấy, hiện nay cháu S, cháu D đang sống ổn định cùng với anh P. Do đó, để đảm bảo sự phát triển bình thường về thể chất và tinh thần, cũng như không làm xáo trộn đến cuộc sống bình thường của 02 cháu.

Vì vậy, tiếp tục giao cháu S, cháu D cho anh P nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở.

 [4]. Về cấp dưỡng: Chị N chưa phải cấp dưỡng nuôi con do anh P chưa yêu cầu.

 [5]. Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6]. Án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình, chị N phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

[7]. Từ những nhận định trên, xét đề nghị của Kiểm sát viên- đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Bình là có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 271, khoản 1 và 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

* Tuyên xử:

1/- Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trương Thị N đối với anh Nguyễn Tấn P.

2/- Về quan hệ con chung: Giao cháu Nguyễn Vũ S, sinh ngày 12/11/2012 và cháu Nguyễn Tuấn D, sinh ngày 10/06/2016 cho anh P tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị N chưa phải cấp dưỡng nuôi con do anh P chưa yêu cầu. Chị N có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được quyền cản trở.

3/- Án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình, chị Trương Thị N phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Chị N đã nộp tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0002923 ngày 15/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hoà Bình được chuyển thu án phí.

4/- Án xử sơ thẩm công khai, các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

127
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 42/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:42/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hòa Bình - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về