Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 35/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 35/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 15 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 369/2021/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 11 năm 2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Phạm Hòa L, sinh năm: 1987; Địa chỉ: 27/4 khu phố T, phường Đ, thành phố A, tỉnh Bình Dương, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Lương Thị Ái T, sinh năm 1993; địa chỉ: số 16/7A, khu phố T, phường D, thành phố A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Anh Phạm Hòa L có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, theo đơn khởi kiện ngày 08 tháng 11 năm 2021 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án anh Ltrình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Hòa L và chị Lương Thị Ái T sau thời gian tìm hiểu nhau thì tự nguyện tiến tới hôn nhân năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đông Hòa, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương vào ngày 05 tháng 6 năm 2017, Giấy chứng nhận kết hôn số 105. Sau kết hôn hai vợ chồng về sống chung tại thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Thời gian đầu sau khi kết hôn hai vợ chồng sống chung hạnh phúc, nhưng đến đầu năm 2021 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong lối sống và sinh hoạt, vợ chồng thường xuyên cải nhau nên cuộc sống gia đình trở nên căng thẳng. Từ tháng 10 năm 2021 đến nay vợ chồng sống ly thân, chị T đã về nhà ngoại sinh sống tại số 16/7A, khu phố Thống Nhất 1, phường Dĩ An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương Nay anh L xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với chị Lương Thị Ái T.

Về con chung: Qúa trình chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Phạm Huyền A, sinh ngày 11/01/2017. Cháu A hiện nay đang sống chung với anh L tại số 27/4 khu phố Tây A, phường Đông Hòa, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Sau khi ly hôn anh Lyêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị Lương Thị Ái T thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Bị đơn chị Lương Thị Ái T đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý và các tài liệu chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện do nguyên đơn cung cấp và yêu cầu chị Lương Thị Ái T có ý kiến đối với các yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Hòa L nhưng chị Lương Thị Ái T không có ý kiến gì. Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn chị Lương Thị Ái T đã được Tòa án triệu tập để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải vào ngày 12/01/2022 nhưng chị T vắng mặt không có lý do; đồng thời cũng không có ý kiến và không cung cấp bất cứ tài liệu, chứng cứ gì thể hiện việc đồng ý hay không đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của anh L.

- Ngày 24/12/2021 Tòa án xác minh tình trạng hôn nhân, nguyên nhân mâu thuẫn và vấn đề chăm sóc nuôi dạy con chung giữa anh Phạm Hòa L và chị Lương Thị Ái T tại Hội Liên hiệp phụ nữ phường Dĩ An và được cung cấp như sau: Chị Lương Thị Ái T không phải là hội viên hội phụ nữ phường. Trước khi khởi kiện ly hôn tại Tòa án, anh Lcũng như chị T không có yêu cầu địa phương tổ chức hòa giải cơ sở. Hội Liên hiệp phụ nữ phường Dĩ An cũng không có tiếp nhận thông tin cung cấp từ đại diện khu phố cũng như người dân phản ảnh. Vì vậy, Hội Liên hiệp phụ nữ phường Dĩ An không rõ nguyên nhân mâu thuẫn và vấn đề chăm sóc nuôi dạy con chung giữa anh Phạm Hòa L và chị Lương Thị Ái T. Đề nghị Tòa án căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án theo quy định.

- Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa đã tuân thủ đúng pháp luật về tố tụng dân sự, nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ vào Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định của pháp luật. Về nội dung: Xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về việc vắng mặt của các đương sự: Nguyên đơn anh Phạm Hòa L có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn chị Lương Thị Ái T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa ngày 15/4/2022 nhưng vắng mặt không có lý do nên căn cứ theo Điều 228, 238 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt anh Phạm Hòa L và chị Lương Thị Ái T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Hòa L và chị Lương Thị Ái T là vợ chồng, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đông Hòa, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương vào ngày 05 tháng 6 năm 2017, Giấy chứng nhận kết hôn số 105 nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Anh Phạm Hòa L cho rằng quá trình sống chung anh, chị không tìm được tiếng nói chung, vợ chồng thường xuyên cải nhau khiến cho cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc nhau. Vì vậy, anh L xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và không hòa giải đoàn tụ. Chị Lương Thị Ái T, sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã triệu tập chị T đến tham gia phiên hòa giải để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng chị T không có mặt và cũng không có bất kỳ ý kiến gì đối với yêu cầu của nguyên đơn, điều này chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, anh L yêu cầu ly hôn là có căn cứ, phù hợp với quy định của Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận yêu cầu được ly hôn của anh Phạm Hòa L.

[3] Về con chung: Anh Phạm Hòa L có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Phạm Huyền A sinh ngày 11/01/2017, quá trình cha mẹ sống ly thân cháu Anh do anh L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Xét thấy, cháu A đang còn nhỏ, cần được sự chăm sóc, quan tâm để phát triển tốt nhất. Quá trình tố tụng tại Tòa án, chị Lương Thị Ái T vắng mặt và không có văn bản nào thể hiện ý chí mong muốn được nuôi con chung, để bảo đảm quyền lợi của con khi ly hôn việc giao con chung cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình. Vì vậy, có cơ sở để chấp nhận yêu cầu của anh L về việc được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Trong quá trình giải quyết vụ án anh Phạm Hòa L tự nguyện không yêu cầu chị Lương Thị Ái T phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu của anh Llà hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5] Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu Toà án giải quyết.

[6] Từ những phân tích trên có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An về việc giải quyết vụ án.

[7] Án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn: Anh Phạm Hòa L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, các Điều 228, 238, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Hòa L được ly hôn với chị Lương Thị Ái T (Giấy chứng nhận kết hôn số 105 do Ủy ban nhân dân phường Đông Hòa, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương cấp ngày 05 tháng 6 năm 2017).

2 Về con chung: Anh Phạm Hòa L được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Phạm Huyền A sinh ngày 11/01/2017. Ghi nhận sự tự nguyện của anh Phạm Hòa L không yêu cầu chị Lương Thị Ái T thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, Anh Phạm Hòa L và chị Lương Thị Ái T có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Vì lợi ích về mọi mặt của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và vấn đề cấp dưỡng.

3. Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu giải quyết.

4. Về án phí: Anh Phạm Hòa L phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn được khấu trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0003175 ngày 23/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 35/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:35/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về