15/02/2022 14:10

05 bản án về ly hôn với người nước ngoài

05 bản án về ly hôn với người nước ngoài

Xác lập hôn nhân với người nước ngoài đã không còn là vấn đề mới mẻ, mà trái lại ngày càng tăng cùng với xu thế mở cửa, giao lưu và hội nhập. Tuy nhiên không phải cuộc hôn nhân nào cũng xuất phát từ tình cảm. Có người chỉ vì muốn được thoát nghèo, được bảo lãnh để xuất ngoại mà chấp nhận kết hôn với người mình chỉ mới gặp vài lần. Và như lẽ thường tình, những cuộc hôn nhân như vậy thường rất chóng vánh và có khi chỉ kéo dài được vài tháng, dẫn đến số lượng án ly hôn có yếu tố nước ngoài ở nước ta cũng ngày một tăng.

Sau đây là 05 bản án về tranh chấp ly hôn với người nước ngoài, mời bạn đọc cùng tham khảo:

1. Bản án 43/2020/HNGĐ-ST ngày 21/09/2020 về ly hôn

- Cấp xét xử: Sơ thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng

- Trích dẫn nội dung: “Bà và Ông Tang Perrie C tự nguyện đăng ký kết hôn theo pháp luật Việt Nam; được Ủy ban nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 24-7-2018. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại Đà Nẵng được 02 tháng thì ông C trở về Hoa Kỳ còn bà thì vẫn ở Việt Nam; từ đó đến nay ông C chưa trở lại Việt Nam lần nào cũng như bà không thể qua Hoa Kỳ để gặp ông. Sau khi ông C trở về Hoa Kỳ được khoảng 07 tháng thì giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do mỗi người sống mỗi nơi, tình cảm vợ chồng lạnh nhạt dần theo thời gian. Đến nay bà xác định không còn tình cảm vợ chồng với nhau nữa nên nguyện vọng của bà là được ly hôn với Ông Tang Perrie C.”

- Quyết định của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Bà Nguyễn Thị Thanh B đối với Ông Tang Perrie C.

2. Bản án 930/2020/HNGĐ-ST ngày 06/07/2020 về ly hôn

- Cấp xét xử: Sơ thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

- Trích dẫn nội dung: “Bà Nguyễn Thị Mỹ T và ông S Steven kết hôn hợp pháp vào năm 2014, được Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn. Sau khi kết hôn ông S Steven trở về nước nên vợ chồng chỉ liên lạc qua mạng xã hội và tin nhắn điện thoại. Thời gian gần đây, ông S Steven thường xuyên ghen tuôn vô cớ, xúc phạm danh dự nhân phầm bà trên tin nhắn và trang mạng xã hội. Mặc khác, nhiều lần về Việt Nam, ông S Steven còn có người phụ nữ khác. Bà đã nhiều lần tạo điều kiện hàn gắn để vợ chồng có thể đoàn tụ nhưng không có kết quả. Nhận thấy mâu thuẫn của hai vợ chồng kéo dài không thể hàn gắn, tình trạng hôn nhân trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà đề nghị Toà án cho bà được ly hôn với ông S Steven.”

- Quyết định của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mỹ T: Bà Nguyễn Thị Mỹ T được ly hôn ông S Steven.

3. Bản án 24/2021/HNGĐ-ST ngày 12/03/2021 về ly hôn

- Cấp xét xử: Sơ thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

- Trích dẫn nội dung: “Bà NTTH quen biết ông SCD thông qua một người bạn giới thiệu từ tháng 2/2008 trong lần ông SCD đến Việt Nam chơi. Trong thời gian 1 tháng ông SCD ở Việt Nam, hai người đến Sở Tư pháp thành phố Hà Nội đăng ký kết hôn vào ngày 18/3/2008. Sau đó ông SCD trở về Mỹ. Bà NTTH vẫn ở lại Việt Nam để làm thủ tục để xin cấp thị thực nhưng bị Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam từ chối cấp thị thực. Kể từ đó, bà NTTH bắt đầu mất liên lạc không gặp ông SCD. Bà NTTH xác định chưa chung sống với ông SCD từ thời điểm đăng ký kết hôn đến nay. Hai bên không quan tâm đến nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó bà NTTH đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết cho ly hôn ông SCD.”

- Quyết định của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà NTTH. Bà NTTH được ly hôn và chấm dứt quan hệ hôn nhân với ông SCD.

4. Bản án 65/2021/HNGĐ-ST ngày 13/05/2021 về xin ly hôn

- Cấp xét xử: Sơ thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

- Trích dẫn nội dung: “Theo Đơn khởi kiện anh Casteret RH Jean RH trình bày: Tôi và chị Phùng Thị CT tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn ngày 04/01/2011 tại UBND thành phố Hà Nội. Quá trình chung sống, vì những khác biệt quá lớn về văn hóa, ngôn ngữ, quan điểm, lối sống nên vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn. Cả hai đã cố gắng điều chỉnh cách nghĩ, thói quen sinh hoạt nhưng không thể hòa giải được những bất đồng. Từ năm 2013 đến nay chúng tôi đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Tôi thấy cuộc hôn nhân của chúng tôi không có hạnh phúc, mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chúng tôi được ly hôn.”

- Quyết định của Tòa án: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Casteret RH Jean RH và chị Phùng Thị CT. Anh Casteret RH Jean RH và chị Phùng Thị CT được chấm dứt hôn nhân.

5. Bản án 433/2020/HNGĐ-ST ngày 31/03/2020 về ly hôn

- Cấp xét xử: Sơ thẩm

- Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

- Trích dẫn nội dung: “Ông Đỗ Ngọc V và bà Le Tatyana T tự nguyện kết hôn vào năm 2016. Sau khi kết hôn ông và bà Le Tatyana T chung sống với nhau được khoảng 02 tháng. Trong thời gian chung sống ông và bà Le Tatyana T thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống và tính cách không hợp. Sau đó bà Le Tatyana T quay trở về Hoa Kỳ sinh sống và làm việc bà Le Tatyana T cũng không làm thủ tục bảo lãnh ông sang Hoa Kỳ sống cùng với bà. Từ khi bà Le Tatyana T về Hoa Kỳ ông và bà Le Tatyana T không còn liên lạc với nhau, cũng không còn chung sống với nhau ông và bà Le Tatyana T không có thời gian cùng nhau nói chuyện và hàn gắn tình cảm nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Nay ông nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, khả năng đoàn tụ không có, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông làm đơn gửi Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu ly hôn với bà Le Tatyana T để có điều kiện ổn định cuộc sống.”

- Quyết định của Tòa án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Đỗ Ngọc V.

Phương Uyên
3399

Đây là nội dung tóm tắt, thông báo văn bản mới dành cho khách hàng của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Nếu quý khách còn vướng mắc vui lòng gửi về Email: info@thuvienphapluat.vn