Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 17/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀ CÚ, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 17/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/05/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 20 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 69/2022/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 02 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 08/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 20/4/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2022/QĐST-HNGĐ ngày 06/5/2022 và Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 14/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 06/5/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Ngô Thị Diểm H, sinh năm 1993. Địa chỉ: ấp L, xã L, huyện T, tỉnh Trà Vinh (có đơn xin xét xử vắng mặt);

- Bị đơn: Anh Kim Vũ L, sinh năm 1990. Địa chỉ: ấp S, xã A, huyện T, tỉnh Trà Vinh (vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 11/02/2022 và tại phiên tòa nguyên đơn chị Ngô Thị Diểm H trình bày: do quen biết trước và qua thời gian tìm hiểu nên chị và anh Kim Vũ L tự nguyện tiến tới hôn nhân, được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh Trà Vinh và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 09/02/2012. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống bên cha mẹ ruột tại ấp L, xã L, huyện T đến năm 2019 do cuộc sống nên vợ chồng chuyển về sống bên cha mẹ chồng tại ấp S, xã A, huyện T, vợ chồng chung sống hạnh phúc, luôn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Đến năm 2020 thì vợ chồng thường phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, vợ chồng thường cự cãi nhau, anh L thường hay nhậu nhẹt, say sĩn về kiếm chuyện chửi bưới chị, vì muốn giữ vững hạnh phúc gia đình nên chị cố gắn chịu đựng mong có sự thay đổi nhưng không có kết quả, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng chị nên chị cùng 02 người con về nhà cha mẹ ruột ở và vợ chồng sống ly thân từ tháng 06/2020 đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng đã mâu thuẫn không thể hàn gắn được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Kim Vũ L. Về con chung: Có 02 người con chung tên Kim Diễm M, sinh ngày 02/12/2012 và Kim Ngọc A, sinh ngày 18/02/2019, chị yêu cầu được quyền nuôi con và không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai và trong quá trình tố tụng bị đơn anh Kim Vũ L trình bày: anh L thống nhất với phần trình bày của chị H về thời gian kết hôn, con chung, tài sản chung, nợ chung là đúng, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng có bất đồng ý kiến, vợ chồng thường cự cãi nhau, sau đó chị H bỏ về nhà cha mẹ ruột, anh có năn nỉ kêu về nhưng chị H không chịu về. Nay chị H yêu cầu được ly hôn với anh thì anh không đồng ý vì anh còn thương vợ con, mong muốn đoàn tụ gia đình để cùng chăm lo, nuôi dạy con cái. Tuy nhiên, khi Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa vào các ngày 06/5/2022 và 20/5/2022 nhưng anh Kim Vũ L vắng mặt không nêu rõ lý do.

Ý kiến của cháu Kim Diễm M, sinh ngày 02/12/2012 trình bày: Nếu cha mẹ ly hôn thì con muốn ở với mẹ.

Tại biên bản xác minh ngày 12/4/2022 ông Thạch Quách T là trưởng ban nhân dân ấp S, xã A, huyện T trình bày: Do ông sống ở gần nên có thấy vợ chồng chị H và L thường xuyên cự cãi, bất đồng quan điểm, mỗi lần cự cãi thì anh L có hành vi rượt đuổi đánh chị H, không được bao lâu thì hàn gắn lại, được một thời gian thì mâu thuẫn tiếp, theo ông Thi vợ chồng chị H nếu có hàn gắn lại cũng không hạnh phúc.

Tại biên bản tiếp xúc bà Sơn Thị Sa M là mẹ ruột của anh Kim Vũ L cho biết: khi chị H làm đơn xin ly hôn anh L có trực tiếp lên Tòa án để tham dự phiên hòa giải hai lần, sau đó Tòa án đưa vụ án ra xét xử và bà có nhận Quyết định đưa vụ án ra xét xử từ bưu điện, lần hai bà có nhận trực tiếp từ Tòa án, mỗi lần nhận bà đều điện thoại thông báo cho Kim Vũ L biết nhưng anh L bận làm việc ở Vũng Tàu nên không về được còn Tòa án muốn xử ra sao thì xử. Theo bà cuộc sống vợ chồng chị H và anh L không hạnh phúc do mâu thuẫn về tiền bạc, chị H ít dành tình cảm cho gia đình, từ khi các con mâu thuẫn thì không thấy bên sui gia lên tiếng để hòa giải hàn gắn, do đó vợ chồng chị H và anh L nếu có hàn gắn cũng không hạnh phúc.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về thời hạn chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đảm bảo theo quy định tại Điều 220 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn chị Ngô Thị Diểm H tham gia tố tụng trong vụ án đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn anh Kim Vũ L chưa thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ tố tụng theo Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự và vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai mà không nêu rõ lý do.

- Về nội dung vụ án: Chị Ngô Thị Diểm H và anh Kim Vũ L kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết theo đúng quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 nên hôn nhân của chị Ngô Thị Diểm H và anh Kim Vũ L là hợp pháp. Sau kết hôn thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, đến tháng 6 năm 2020 cuộc sống vợ chồng xảy ra mâu thuẫn được ông Thạch Quách T là trưởng ban nhân dân ấp S và bà Sơn Thị Sa M là mẹ ruột anh L xác nhận là có thật. Hiện tại chị Ngô Thị Diểm H và anh Kim Vũ L sống ly thân từ tháng 6 năm 2020 đến nay, vợ chồng bỏ mặc ai sống ra sao thì sống. Trong suốt quá trình tố tụng, chị Ngô Thị Diểm H cương quyết ly hôn, do hôn nhân đã đến mức trầm trọng, từ đó yêu cầu ly hôn của chị Ngô Thị Diễm H là có cơ sở chấp nhận. Về con chung, giao hai cháu Kim Diễm M, sinh ngày 02/12/2012 và Kim Ngọc A, sinh ngày 18/02/2019 cho chị Ngô Thị Diểm H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cũng là phù hợp với nguyện vọng của cháu M. Về cấp dưỡng nuôi con, do chị H không yêu cầu nên không xem xét. Về tài sản chung, nợ chung các bên không tranh chấp và không yêu cầu nên không xét. Từ đó, đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị Diểm H.

+ Kiến nghị khắc phục vi phạm: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục xét xử vắng mặt đương sự: Tòa án nhân dân huyện Trà Cú đã thực hiện việc tống đạt trực tiếp cho bị đơn các văn bản tố tụng từ khi thụ lý, tiếp cận, công khai, giao nộp chứng cứ và hòa giải, xét xử theo Điều 177 của Bộ luât Tố tụng dân sự, nhưng bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai mà không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan, còn nguyên đơn chị Ngô Thị Diểm H có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Chị Ngô Thị Diểm H và anh Kim Vũ L xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 09/02/2012 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T theo đúng quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 nên hôn nhân của chị H và anh L là hợp pháp. Sau kết hôn, chị H và anh L chung sống có hai người con chung là thể hiện một gia đình hạnh phúc. Đến tháng 6 năm 2020 xảy ra mâu thuẫn và sống ly thân, ông Thạch Quách T là Trưởng ban nhân dân ấp S, xã A và bà Sơn Thị Sa M là mẹ ruột anh L xác nhận là có thật và có biết việc vợ chồng chị H và anh L thường xảy cự cãi, theo ông Thi thì khả năng đoàn tụ của vợ chồng chị H và anh L là rất khó, còn theo bà M thì nếu có hàn gắn cũng không hạnh phúc. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tổ chức hòa giải, động viên, thuyết phục để tạo điều kiện cho chị H và anh L hàn gắn, đoàn tụ xây dựng gia đình nhưng không đạt kết quả do chị H cương quyết ly hôn, còn anh L được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vắng mặt không lý do. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh L đã mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, ly thân từ tháng 6 năm 2020 đến nay không ai tạo điều kiện hàn gắn chứng tỏ đời sống chung không thể kéo dài, nếu có duy trì thì mục đích hôn nhân cũng không đạt được. Căn cứ Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị H được ly hôn với anh L.

[3] Về con chung: tên Kim Diễm M, sinh ngày 02/12/2012 và Kim Ngọc A, sinh ngày 18/02/2019 hiện đang sống với chị H. Khi được Tòa án hỏi ý kiến thì cháu M có nguyện vọng sống chung bên mẹ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao cháu Kim Diễm M và cháu Kim Ngọc A cho chị H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng (phù hợp theo nguyện vọng của cháu M). Chị H không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp nên Tòa án không xem xét.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trà Cú là có cơ sở, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6] Căn cứ điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, căn cứ Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, 147, 177, 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, căn cứ Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Ngô Thị Diểm H về việc yêu cầu ly hôn đối với anh Kim Vũ L.

Cho chị Ngô Thị Diểm H được ly hôn với anh Kim Vũ L.

2. Về con chung: Giao cháu Kim Diễm M, sinh ngày 02/12/2012 và Kim Ngọc A, sinh ngày 18/02/2019 cho chị H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng (phù hợp với nguyện vọng của cháu M).

Về cấp dưỡng chị H không có yêu cầu nên không giải quyết.

Bên không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con chung mà không ai được ngăn cản, đồng thời có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được chung sống với người trực tiếp nuôi con. Vì lợi ích của con, đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không tranh chấp nên Tòa án không giải quyết.

4. Về án phí: Chị Ngô Thị Diểm H phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0009675 ngày 14/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trà Cú. Bị đơn ông Kim Vũ L không phải chịu án phí.

5. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Ngô Thị Diểm H và bị đơn anh Kim Vũ L vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

49
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 17/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:17/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trà Cú - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về