Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 141/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 141/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 06 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 106/2022/TLST-HNGĐ ngày 25 tháng 4 năm 2022 về việc tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 62/2022/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Hồng S, sinh năm 1987.

Địa chỉ: khu vực A, phường D, thành phố V, tỉnh H. Có mặt.

- Bị đơn: ông Nguyễn Hải Q, sinh năm 1977.

Địa chỉ: khu vực A, phường D, thành phố V, tỉnh H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Hồng S trình bày: Bà và ông Q tự nguyện chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện L, tỉnh H vào năm 2014. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc nhưng sau đó thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, ông Q không chăm lo gia đình, bà đã khuyên nhủ nhiều lần nhưng ông Q không thay đổi. Ông bà đã sống ly thân từ tháng 5/2021 đến nay. Do đó, nguyên đơn khởi kiện xin được ly hôn với xin được ly hôn với ông Nguyễn Hải Q.

Về con chung: có 02 con chung là Nguyễn Hải Yến P (Giới tính: Nữ) sinh ngày 14/6/2018 và Nguyễn Trọng H (Giới tính: nam) sinh ngày 22/10/2020, hiện đang sinh sống cùng bà. Bà yêu cầu được nuôi con chung, yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật, mỗi con chung là 745.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi lăm nghìn đồng)/tháng cho đến khi đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Về nợ chung: không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Nguyễn Hải Q vắng mặt nên không có ý kiến trình bày.

Tại phiên tòa, bà Nguyễn Hồng S vẫn giữ nguyên yêu cầu; ông Nguyễn Hải Q vắng mặt nên chưa có ý kiến trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật: Bà Nguyễn Hồng S khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Nguyễn Hải Q và được nuôi con chung nên Tòa án xác định đây là tranh chấp ly hôn, nuôi con theo quy định tại Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình, Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Nguyễn Hải Q cư trú tại khu vực A, phường D, thành phố V, tỉnh H nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố V theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về xét xử vắng mặt: Bị đơn ông Nguyễn Hải Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Do đó, căn cứ vào khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyễn Hải Q.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Hồng S và ông Nguyễn Hải Q đã tự nguyện chung sống với nhau như vợ chồng và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Xà P, huyện L, tỉnh H vào năm 2014. Do đó, hôn nhân giữa bà S và ông Q là hợp pháp. Bà S yêu cầu ly hôn với ông Q là do vợ chồng bất đồng ý kiến, ông Q không chăm lo gia đình, bà đã khuyên nhủ nhiều lần nhưng ông Q không thay đổi, ông bà đã ly thân từ tháng 5/2021 đến nay. Vì vậy, bà S cương quyết xin ly hôn. Trong khi đó, ông Q bỏ mặc, không đến Tòa án để trình bày ý kiến. Điều đó, chứng tỏ hôn nhân giữa bà S và ông Q đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà S, cho bà S ly hôn với ông Q là phù hợp với khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[5] Về con chung: Quá trình chung sống, bà S và ông Q có 02 con chung là Nguyễn Hải Yến P (Giới tính: Nữ) sinh ngày 14/6/2018 và Nguyễn Trọng H (Giới tính: Nam) sinh ngày 22/10/2020, bà yêu cầu được nuôi con chung. Hiện nay, cháu Hưng chưa đủ 36 tháng tuổi, cháu Phương cũng còn nhỏ và đang sống chung với mẹ là bà S. Do đó, để không làm xáo trộn cuộc sống và đảm bảo tốt nhất quyền lợi về mọi mặt của các cháu, Hội đồng xét xử quyết định giao 02 con chung cho bà S tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình.

[6] Về cấp dưỡng: trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa, bà S yêu cầu ông Q phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật, cụ thể, cấp dưỡng mỗi con chung là 745.000 đồng (bảy trăm bốn mươi lăm nghìn đồng)/tháng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Khoản 2 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “ Cha mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Do đó, ông Q có nghĩa vụ phải cấp dưỡng nuôi con chung. Đồng thời, mức yêu cầu của nguyên đơn là phù hợp với Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 nên có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Bà S không yêu cầu, ông Q chưa có ý kiến nên Hội đồng xét xử chưa xem xét giải quyết trong cùng vụ án.

[8] Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà S và ông Q phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28, 35, 39, 147, 227, 228 và 273 Bộ Luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các điều 53, 56, 81, 82, 83, 107, 110, 116 và 117 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Hồng S.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Hồng S được ly hôn với ông Nguyễn Hải Q.

2. Về con chung: Giao 02 con chung là Nguyễn Hải Yến P (Giới tính: Nữ) sinh ngày 14/6/2018 và Nguyễn Trọng H (Giới tính: Nam) sinh ngày 22/10/2020 cho bà Nguyễn Hồng S được quyền trực tiếp nuôi dưỡng. ông Nguyễn Hải Q có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng: ông Nguyễn Hải Q có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi con chung là 745.000 đồng (Bảy trăm bốn mươi lăm nghìn đồng)/tháng.

Phương thức cấp dưỡng: Cấp định kỳ hàng tháng. Thời gian cấp dưỡng: kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 06/07/2022) cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Do chưa có yêu cầu nên chưa xem xét giải quyết trong cùng vụ án.

5. Về án phí: Bà Nguyễn Hồng S phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí bà Nguyễn Hồng S đã nộp theo biên lai số 0001350 ngày 20 tháng 4 năm 2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh H, bà Nguyễn Hồng S không phải nộp thêm.

Ông Nguyễn Hải Q phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

6. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 141/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:141/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vị Thanh - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về